CreepyPasta - NHỮNG SỰ THẬT RÙNG RỢN
4/6/16
Huyền Thoại Jeffrey Dahmer (hay The Milwaukee Man-Eater, The Milwaukee Ruhr Cannibal, Kẻ Sát Nhân Ăn Thịt Người Vùng Milwaukee)
-Phoenix-
"Tôi biết tôi là một con quỷ hay một kẻ tâm thần, thậm chí là cả hai. Bây giờ, tôi tin là tôi không được khỏe về tinh thần. Bác sỹ đã nói với tôi về căn bệnh này và tôi có một vài hiện tượng như thế. Tôi biết nguyên nhân vì sao tôi lại làm những việc tổn hại như thế…Cảm ơn Chúa, tôi sẽ không gây thêm bất cứ tổn hại nào nữa. Tôi tin rằng chỉ có chúa Jesus có thể cứu rỗi tôi từ những tội ác tôi gây ra...". Đây là những lời sau cùng mà kẻ từng giết rất nhiều người, ăn thịt họ và coi xương người như những chiến lợi phẩm được thốt ra sau khi nghe toà tuyên án 957 năm tù giam. Tên sát nhân này chính là Jeffrey Dahmer, cư dân ở Milwaukee, Mỹ, con trai của một nhà hóa học.
Konerak, 14 tuổi là người may mắn duy nhất chạy trốn được tay ác quỷ. Đó là một cơ hội duy nhất để cậu bé trốn thoát khỏi căn hộ kinh hoàng, nơi có người đàn ông tóc vàng Dahmer đang tìm cách đánh thuốc mê mình. May mắn dường như đã đến với nó khi tay ác quỷ đó đột nhiên ra ngoài và Konerak thì chạy xung quanh căn hộ để tìm đường thoát thân. Với sức mạnh, nghị lực và bản năng sinh tồn trỗi dậy, Konerak phi ra khỏi đó trong tình trạng trần truồng và chạy thật nhanh vì đây là cơ hội duy nhất để sống sót. Lúc đó khoảng gần 2 giờ sáng, và cậu đã được Sandra Smith bắt gặp. Ngay lập tức cô gọi điện thoại cho 911.
Sau đó không lâu, hai cảnh sát và các nhân viên y tế đã có mặt ở hiện trường. Nhân viên y tế nhanh chóng dùng chăn quấn quanh người cậu bé và cảnh sát cũng cố gắng để hiểu dược những điều mà cậu bé người châu á này trình bày. Sandra Smith và em họ, Nicole Childress, 18 tuổi, đang đứng gần đứa trẻ khi cảnh sát thành phố Milwaukee đến. Người đàn ông cao lớn, tóc vàng cũng đứng gần cậu bé. Người đàn ông tóc vàng cao lớn nói với cảnh sát rằng Konerak, 19 tuổi, là người tình của hắn và cậu bé đang say xỉn. Konerak đã bị đánh thuốc mê nên nói không còn mạch lạc nữa và cũng không thể cãi lại những lời bịa đặt của người đàn ông kia. Như để chứng minh cho những điều mình vừa nói, Dahmer đã đưa cảnh sát tấm ảnh chụp Konerak. Hai cô gái cố gắng xen vào cuộc nói chuyện, tuy nhiên viên cảnh sát cứ lờ họ đi và chỉ nghe những lời của người đàn ông có khuôn mặt tái nhợt kia. Hai cô cảm thấy rất tức giận và lấy làm khó chịu bởi chính họ là nhân chứng đã nhìn thấy vẻ mặt sợ hãi của cậu bé khi cố gắng chạy thoát người đàn ông tóc vàng trước khi cảnh sát đến.
Để xác minh lại lời khai của người đàn ông tóc vàng, hai viên cảnh sát đã cùng cậu bé và tên tóc vàng đến căn hộ hắn ta đang sống. Quần áo của Konerak được thấy trên ghế sofa và ở đó còn có hai bức ảnh thằng bé trong chiếc quần đùi màu đen.
Konerak ngồi im trên ghế sofa và không thể thốt ra được lời nào thậm chí nó còn không hiểu rõ được những lời giải thích của người đàn ông tóc vàng với cảnh sát. Hắn xin lỗi cảnh sát khi bạn tình của mình làm náo động và hứa không để những việc thế này xảy ra một lần nào nữa.
Cảnh sát đã tin vào những lời người đàn ông nói và cũng không muốn nán lại thêm bất kỳ phút nào ở trong căn hộ của những người đồng tính luyến ái, họ rời đó khi Konerak vẫn ngồi im trên ghế. Tuy nhiên, họ đã bỏ lỡ rất nhiều điều trong ngôi nhà lạnh lẽo đó.
Cái mà họ để lỡ trong phòng ngủ của căn hộ là một xác chết của Tony Hughes đang bị phân hủy. Cái mà họ đã để lỡ là ngay khi những viên cảnh sát rời đi, hắn ta đã quay ra bóp cổ cậu bé châu á và quan hệ tình dục với xác chết. Cái mà họ đã để lỡ là những bức ảnh mà kẻ sát nhân đã chụp cảnh giết cậu bé, chặt thành nhiều mảnh và đầu lâu giữ lại như là một chiến lợi phẩm. Câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Mẹ của 2 cô gái đã báo cảnh sát khi bắt gặp cậu bé chạy trên đường, Glenda Cleveland, 36 tuổi, đã gọi cho cảnh sát để hỏi cho rõ điều gì đã xảy ra với cậu bé người châu á.
Bà hỏi nó bao nhiêu tuổi và nhận được câu trả lời từ phía chính quyền: "Nó không phải đứa trẻ. Đó là người đã trưởng thành". Tuy nhiên, Cleveland vẫn tiếp tục đặt ra những câu hỏi, điều đó khiến viên cảnh sát trực điện thoại khó chịu: "Thưa bà, tôi không phải trả lời bất kỳ câu hỏi nào nữa. Đó là tất cả những gì tôi biết. Cậu ta đang sống trong căn hộ của bạn trai mình. Và đương nhiên tôi không thể can thiệp vào cuộc sống của họ".
Hai ngày sau đó, Cleveland gọi điện lại cho cảnh sát và đọc bài báo viết về sự mất tích của một cậu bé người Lào tên là Konerak Sinthasomphone trông rất giống với cậu bé đã chạy trốn từ nhà Jeff Dahmer. Cảnh sát dập máy và không nói một lời nào. Bà Cleveland cố gắng để liên lạc với cảnh sát FBI khu vực Milwaukee nhưng không được.
Hai tháng sau đó, 22/7/1991, hai cảnh sát khu vực Milwaukee lái xe tuần tra quanh trường đại học Marquette, khu vực có tỉ lệ tội phạm khá cao. Khoảng nửa đêm, hai viên cảnh sát thấy một người đàn ông với chiếc tay bị còng. Họ hỏi anh ta đã làm gì và cho rằng gã đàn ông này vừa chạy trốn khỏi những nhân viên cảnh sát khác. Người đàn ông bắt đầu kể về người đàn ông kỳ lạ đã đấm anh ta tại chính căn hộ của mình. Đó là Tracy Edwards. Câu chuyện của Edwards có chút gì đó liên quan tới những người đồng tính luyến ái, thông thường cảnh sát sẽ tránh những trường hợp thế này, song 2 viên cảnh sát nghĩ rằng nên kiểm tra về người đàn ông đã đấm Edwards. Người đó sống ở khu chung cư Oxford tại phố 924 North 25th.
Họ gõ cửa căn hộ số 213 và một người đàn ông tóc vàng tầm 31 tuổi trông khá sáng sủa xuất hiện. Hắn ta đề nghị vào phòng ngủ để lấy chìa khóa mở còng tay. Edwards nhớ rằng con dao mà hắn đe dọa mình cũng ở trong phòng ngủ. Một trong hai viên cảnh sát quyết định cùng đi vào phòng ngủ. Cảnh sát để ý đến những bức ảnh ở quanh phòng, và nó khiến cho anh ta sửng sốt: chặt cơ thể của người, đầu lâu trong tủ lạnh. Anh ta nhanh chóng còng tay người đàn ông này và ra lệnh bắt giữ hắn, Jeffrey Dahmer.
Người đàn ông tóc vàng lao vào đánh viên cảnh sát đang khống chế mình. Trong khi đó, viên cảnh sát còn lại tiến tới gần chiếc tủ lạnh và mở ra. Anh ta đột nhiên đóng sầm cánh cửa lại và la lớn: "Có một cái đầu ở trong tủ lạnh". Cảnh sát tiến hành khám xét ngôi nhà và rùng mình trước sự ghê tởm. Mùi hôi thối bao phủ quanh căn nhà. Trong tủ lạnh, thùng soda xuất hiện một cái đầu đang phân hủy. Trên ngăn đá còn tới 3 cái đầu nữa được gói rất gọn gàng bên trong các túi nylon.
Trong căn hộ có một cánh cửa thông phòng ngủ với nhà tắm và nó được trạng bị một chiếc chốt rất chắc chắn. Anne E. Schwartz, phóng viên đầu tiên có mặt tại hiện trường đã viết lại những gì cô nhìn thấy vào quyển sổ tay của mình: "Số người bị giết có thể không chỉ dừng lại ở đó. Chiếc nồi áp suất ở cuối phòng chứa một vài bàn tay và dương vật đang bị phân hủy. Cái giá phía trên nồi hơi còn có 2 chiếc đầu lâu. Ngoài ra, cồn êtylic, thuốc gây mê, và chất formaldehyt (dùng để bảo quản bộ phận sinh dục nam) được tìm trong một vài cái chai thủy tinh. Cả những bức ảnh do chính Dahmer chụp các nạn nhân cũng được các nhà điều tra tìm thấy. Trong số đó có bức ảnh chụp đầu của một người đàn ông trong bồn rửa bát; cái khác lại chụp nạn nhân bị mổ phanh dọc từ cổ xuống đến háng, vết cắt rất ngọt và tôi có thể nhìn thấy rõ cả xương chậu". Một vài bức ảnh nữa chụp những nạn nhân trước khi bị giết trong tư thế như nô lệ tình dục.
Các bác sỹ pháp y tiến hành phân tích mẫu ADN của những người đàn ông trẻ bị mất tích và cả họ hàng thân thích của Dahmer. Và cả thế giới đang cố hiểu xem chuyện gì đã xảy ra trong căn hộ số 213. Và các giả thiết đã được đặt ra.
Đầu người trong tủ, khoan lỗ trên đầu, cho rằng thây ma sẽ sống lại bằng cách ăn thịt, quan hệ tình dục với xác chết, uống rượu mọi lúc mọi nơi, xây mồ lớn trong nhà, thủ dâm... Một chân dung Jeffrey Dahmer gớm ghiếc hơn những gì người ta có thể tưởng ở một con người. Vậy nhưng đó lại là sự thực ở cậu con trai vốn là con của một tiến sỹ hóa học. Động cơ nào dẫn đến những thay đổi và biến một cậu bé hiền lành trở thành một ác quỷ như vậy?
Sau khi những hình ảnh ghê rợn ở nhà Dahmer được công bố, cảnh sát, chuyên gia pháp y, truyền thông, gia đình các nạn nhân mất tích, gia đình Dahmer, toàn thể dân cư Milwaukee và toàn thể thế giới đã cố gắng để hiểu điều gì đã xảy ra trong căn hộ số 213. Và bí mật dần được hé lộ sau khi rất nhiều nhà điều tra vào cuộc. Người đầu tiên điều tra kỹ càng về Jeffrey Dahmer là thám tử Patrick Kennedy. Người đàn ông to lớn với bộ râu quai nón oai hùng đó chính là người duy nhất được Dahmer kể cho nghe chi tiết về quãng thời gian 13 năm giết chóc của hắn.
Dahmer bắt đầu thích giết đàn ông và quan hệ với thi thể của họ khi mới 14 tuổi nhưng hắn đã kiềm chế được sở thích quái đản này tận đến khi tốt nghiệp cấp 3 vào tháng 6/1978. Một lần, khi Dahmer đang sống với bố mẹ ở Bath, Ohio, hắn đi nhờ xe một người có tên Steven Hicks. Họ đã cùng nhau quan hệ và uống bia nhưng sau đó Hicks muốn đi. Dahmer thì không muốn nghĩ tới cảnh người đàn ông đó rời xa mình nên đã dùng thanh tạ đập vào đầu Hicks cho đến chết. Sau đó, hắn cắt thi thể ra từng mảnh, cho vào những túi rác lớn và ném chúng vào khu rừng ngay phía sau ngôi nhà.
Tháng 10/1981, lần đầu tiên hắn bị bắt do say rượu gây náo loạn. Mọi chuyện đều được kiểm soát trong 4 năm sau cho đến khi gã bị bắt lại vào tháng 9/1986 vì tội thủ dâm trước mặt 2 bé trai. Và y bị quản chế trong 1 năm sau đó. Hắn bắt đầu ra tay với nạn nhân xấu số thứ 2, Steven Toumi, tại một phòng khách sạn vào tháng 9/1987. Dahmer không nhớ mình đã giết anh ta như thế nào, nhưng khi gã thức dậy, Toumi đã chết và chảy máu ở miệng. Hắn mua một vali to và nhét xác vào đấy. Sau khi mang Toumi xuống tầng hầm ngôi nhà, hắn bắt đầu làm tình và thủ dâm với xác chết, chặt chân tay và mang đi vứt. Vài tháng sau, hắn chọn được nạn nhân thứ 3, một cậu bé 14 tuổi, thổ dân Mỹ tên là Jamie Doxtator. Tháng 3/1988, hắn giết Guerrero tại 1 quán bar dành cho dân đồng tính ở Milwaukee. Mùa hè năm đó, Dakmer giết 4 người đàn ông.
Vào ngày 14/5/1990, Dahmer chuyển tới căn hộ số 213 trên phố 924 North 25th Street và sự giết chóc bắt đầu dã man hơn. Trong vòng 15 tháng, hắn ta đã cướp đi sinh mạng của 12 người đàn ông. Sự điên cuồng này lên tới đỉnh điểm vào khoảng tháng 5 tới tháng 7/1991. Trong thời gian này, cứ 1 tuần hắn giết chết một người. Ba người da đen, 1 người da trắng, 1 người Lào và một người Tây Ban Nha đã trở thành nạn nhân của Dahmer. Song không phải tất cả đều là những người đồng tính hay lưỡng tính. Nạn nhân trẻ nhất là Konerak, 14 tuổi, và người già nhất 31 tuổi.
Không hiếm những loài động vật ăn thịt đồng loại và Dahmer cũng thú tính không kém. Kẻ bệnh hoạn này đã khẳng định rằng hắn cũng ăn thịt của các nạn nhân bởi vì hắn tin rằng những người đó sẽ sống lại trong hắn.
Tại sao Jeffrey Dahmer lại trở nên thú tính như vậy? Hắn đã trở thành một tên giết người nguy hiểm, một kẻ ăn thịt người và một kẻ bị bệnh thần kinh như thế nào? Có rất ít câu trả lời thuyết phục dù đã có một vài quyển sách giải thích về căn nguyên của vấn đề này: do tuổi thơ ấu không yên bình, bố mẹ không nuôi nấng tốt, đầu bị chấn thương, tác hại của chứng nghiện rượu, nghiện ma túy.
Còn trong cuốn sách “Câu chuyện của người làm cha”, ông Lionel Dahmer, bố của sát nhân thì cho rằng cha mẹ luôn muốn mang đến sự giáo dục tốt nhất dành cho con, tuy nhiên những đứa trẻ đã tự dựng lên một rào cản rất lớn, tách rời bố mẹ chúng. "Họ rất sợ khi con cái mình trở nên như thế, nó như là một dòng nước xoáy và sẽ cuốn luôn con bạn đi". Lionel cũng khá thẳng thắn nhìn nhận những tiêu cực ảnh hưởng trong đời sống của Dahmer. Không có gia đình nào hoàn hảo. Mẹ của Dahmer có sức khỏe không tốt, thường xuyên đau ốm. Còn bố của Dahmer là một nhà hóa học đã lấy được bằng tiến sỹ. ông thường xuyên ở nơi làm việc để tránh những sự rắc rối trong gia đình. Vợ chồng lạnh nhạt, xa cách. Và họ ly hôn khi Dahmer mới 8 tuổi.
Song đó không phải là nguyên nhân cốt yếu dẫn đến việc thay đổi nhân tính một cách không thể kiểm soát như vậy.
Theo ông Lionel thì lý do chính khiến Dahmer thay đổi bản chất là do việc chuyển tới sống tại Ohio. Dahmer lạc lõng giữa đám bạn bè và càng ngày càng thu mình lại. Và từ năm 10 đến 15 tuổi, Jeffrey Dahmer bắt đầu thể hiện sự quái đản của mình. Cậu bé thường xuyên lục tìm những túi rác xung quanh nơi ở để sưu tầm xác hay một phần của những con vật đã chết để lập ra nghĩa trang của riêng mình. "Nó lột da của chúng. Có khi còn cắm đầu của một con chó trên cái cọc", ông Lionel nhớ lại. Và cậu bé cũng bắt đầu bị cuốn vào ý nghĩ về tình dục.
Trong khi những đứa con trai khác mải lo theo đuổi sự nghiệp, học hành và tạo lập gia đình thì Dahmer lại chẳng có mục tiêu gì. " Nó hoàn toàn tách biệt khỏi cuộc sống bình thường, sống theo cách của riêng mình, chẳng giống ai". Trong đầu cậu bé chỉ có những hình ảnh tưởng tượng của cái chết và chặt chân tay, các biểu hiện của hắn giống như một thiếu niên bị bệnh tâm thần.
Nhưng Jeffrey Dahmer lại rất ít nói và biệt lập. Khác hẳn những đứa trẻ cùng trang lứa, nó bé chưa bao giờ biết cãi lời bố mẹ. Không chỉ có như vậy, mọi chuyện càng trở nên khó kiểm soát khi Dahmer có những hành động: cởi truồng giữa đường, quấy rối trẻ nhỏ và thậm tệ nhất là bị cảnh sát bắt vì tội giết người. Cứ mỗi lần như vậy, ông Lionel lại thuê luật sư giúp đỡ và mong đứa con trai của mình sẽ tiến bộ. Tuy nhiên, những mong muốn tưởng chừng đơn giản của ông lại không được đền đáp. Khi đó, Lionel nhận ra rằng đứa con bé bỏng ngày nào đã không còn trong vòng tay chăm sóc của ông.
Giáo sư James Fox, Chủ nhiệm khoa tâm lý tội phạm của trường ĐH Northeastern tại Boston khẳng định: "Không có điều gì dự báo được thảm kịch này sẽ xảy ra. Không thể giải thích nổi những hành vi kỳ lạ như vậy. Nhân cách của Jeffrey Dahmer bị phá hủy khi mẹ hắn bỏ đi. Tuy nhiên thật sai lầm khi đổ trách nhiệm này cho bố mẹ của kẻ giết người man rợ này. Dahmer là kẻ tội phạm chứ không phải cảnh sát hay đấng sinh thành ra hắn".
Giáo sư Fox cho rằng Dahmer là kẻ giết người hàng loạt đặc biệt: "Hắn không thể kiểm soát bản thân và bị chi phối bởi những suy nghĩ quái đản. Song điều khác biệt là hầu hết các sát thủ đều dừng lại sau khi nạn nhân chết. Còn trong trường hợp của Dahmer, mọi điều vui vẻ nhất chỉ bắt đầu sau khi nạn nhân chết. Những suy nghĩ khác lạ kết hợp với lòng căm thù đã trút lên người của kẻ xấu số. Mọi vướng mắc dẫn đến không thỏa mãn về tình dục, Dahmer dễ dàng tìm được trên xác chết của nạn nhân".
Trong phiên tòa xét xử Jeff Dahmer, an ninh được tăng cường tối đa tới mức chưa từng có trong lịch sử của Milwaukee: "Chó nghiệp vụ được dùng để đánh hơi, phát hiện bom mỗi khi phiên tòa diễn ra và những người tới xem xét xử đều được kiểm tra rất kỹ lưỡng bằng máy dò tìm kim loại. Trong phòng xử án, Dahmer được cách ly với căn phòng bằng những thanh chấn song sắt và kính". 100 ghế ngồi, 23 phóng viên, 34 người nhà của nạn nhân và 43 người dân đến xem xét xử.
Những nhân vật chính trong phiên tòa, ngoài tên tội phạm Jeff Dahmer, còn có thẩm phán Laurence C. Gram, Jr, luật sư của quận, ông Michael McCann và luật sư bào chữa Gerald Boyle. ông Lionel Dahmer cũng tham dự tất cả các buổi của phiên tòa. Vào ngày 13/7/1992, Dahmer từ chối sự biện hộ của luật sư và xin được nhận tội, song đó cũng là lúc hắn bị phát điên.
Theo nhận định của Don Davis trong "Những tên giết người ở Milwaukee": "Bây giờ thay vì bào chữa về tội giết người, luật sư Gerald Boyle chỉ cần chứng mình rằng thân chủ ông bị điên, bởi vì chỉ có người điên mới có những hành động điên rồ như vậy". Mike McCann, luật sư biện hộ lại cho rằng Dahmer không bị điên, và anh ta biết những việc mình làm là sai trái, nhưng vẫn cứ làm. Nhưng cuộc tranh luận giữa luật sư bảo vệ bị cáo và luật sư biện hộ cũng kết thúc trong quan điểm Dahmer có vấn đề thần kinh.
Quan tòa đã phải mất năm tiếng để suy nghĩ đưa ra phán xét cuối cùng. Và dù bị thần kinh, Jeff Dahmer cũng không đáng được nghỉ ngơi trong bệnh viện, chỗ của hắn phải là xà lim trong tù. Hắn phải nhận 15 án chung thân liên tiếp mà tính ra là 957 năm trong tù. Dahmer cải tạo rất tốt khi bị nhốt trong tù Columbia Correctional Institute ở Portage, Wisconsin.
Ban đầu, hắn không được chấp nhận là một phần trong cộng đồng tội phạm ở đây, điều này ảnh hưởng đến sự an toàn của chính hắn. Nhưng Dahmer, người tù gương mẫu, đã thuyết phục nhà tù cho phép anh ta được giao tiếp nhiều hơn với các bạn ở trong tù. Hắn có thể ăn và làm việc chung với bạn tù. Và đúng như dự đoán, sáng ngày 28/11/1994, Dahmer bị một bạn tù đánh chết lúc 9 giờ 11 phút sáng 28/11/1994. Kết thúc một cuộc đời tội lỗi.
Huyền Thoại Irina Gaidamachuk (hay The Russian Beauty Murderers )
-Phoenix-
Irina Gaidamachuk là một phụ nữ có vẻ ngoài xinh đẹp, dễ mến và luôn tỏ ra tốt bụng với hàng xóm, nhất là những người phụ nữ hưu trí sống một mình. Tuy nhiên mới đây chân tướng thực của Gaidamachuk đã bị phơi bầy, sau khi cảnh sát Nga bắt giữ và khởi tố thị vì tội sát hại 17 người.
Với gia đình và hàng xóm, Gaidamachuk trông hoàn toàn bình thường. Họ nói rằng cô ta nghiện rượu nặng và phải sống nhờ trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên, Gaidamachuk luôn tỏ ra dễ mến và họ cho rằng cô ta hoàn toàn vô hại. Song tuần trước cảnh sát Nga đã khởi tố Gaidamachuk vì tội sát hại 17 người và bà mẹ trẻ 39 tuổi này đang đứng trước khả năng trở thành nữ kẻ sát thủ giết người hàng loạt tồi tệ nhất Nga.
Sau 8 năm săn lùng, cảnh sát Nga đã bắt được Gaidamachuk. Phát ngôn viên cảnh sát vùng Sverdlovsk, Valery Gorelykh, cho hãng tin ITAR-TASS biết: Gaidamachuk ra tay với cùng một thủ đoạn khá giống nhau. Đối tượng của thị là những phụ nữ lớn tuổi đã về hưu. Thị tìm đủ mọi cách để tiếp cận với những phụ nữ này, trước khi sát hại các nạn nhân rồi tẩu thoát với khối tài sản mà họ dành dụm được. " Tổng cộng có khoảng 20 vụ giết người được báo cáo tại vài thị trấn trong khu vực Ural với cùng một phương thức phạm tội giống nhau" - Gorelykh nói - "Theo quan điểm ban đầu của các sĩ quan cảnh sát, chúng được tiến hành với động cơ giết thuê. Nhưng thực tế lại không phải vậy".
Báo chí Nga cho biết Gaidamachuk có gia cảnh không đặc biệt. Gaidamachuk có hai con gái, với đứa lớn tên Alina, được gửi vào trại trẻ mồ côi từ bé và hiện đã 18 tuổi. Đứa thứ hai tên Anastasia, 12 tuổi, đang sống cùng Gaidamachuk. Bà mẹ này rất ít khi thăm đứa con gái lớn, dù khi bị cảnh sát bắt, thị khai đã phạm tội để có tiền gửi cho con.
Chuỗi các vụ giết người của Gaidamachuk bắt đầu vào năm 2002. Theo lời khai của Gaidamachuk, thị đã ngừng đếm số nạn nhân sau khi sát hại người thứ 10. Không rõ bằng cách nào, thị nắm trong tay danh sách những người hưu trí vùng Sverdlovsk và quyết định tìm cách kết thân, thường là bằng đề nghị trang trí lại căn hộ của họ hoặc làm cho họ những việc vặt trong nhà.
Sau khi được các nạn nhân mời về nhà, Gaidamachuk đã sát hại họ rất tàn nhẫn, bằng cách dùng hung khí đÁnh vào đầu. Cơ quan điều tra nói rằng có người đã bị đÁnh vào đầu tới 24 lần. Vụ tồi tệ nhất xảy ra khi một bà cụ 82 tuổi bị đÁnh vỡ đầu bằng búa. Tiếp đó Gaidamachuk đã hỏa thiêu căn nhà để hủy chứng cứ phạm tội. Trong một vụ khác, khi phải mất thời gian để tìm kiếm tiền tiết kiệm của nạn nhân, Gaidamachuk không ngại ngần ngủ qua đêm bên cạnh cái xác. Hồi đầu năm nay, chỉ trong vòng một tuần, Gaidamachuk đã giết hại ba phụ nữ sống cùng phố Krasnoufimsk, quê nhà của thị, vốn cách Moskva cả ngàn cây số.
"Cô ta là một người đàn bà cực kỳ độc ác. Tôi đã tin rằng chúng tôi đang theo dấu một người đàn ông. Sau rốt, ai có thể tưởng tượng một người đàn bà có thể bổ vào đầu người khác những 24 cú đÁnh chết người" - một điều tra viên giấu tên đã săn đuổi Gaidamachuk suốt 8 năm nhận xét -"Thị rất máu lạnh nhưng lại có vẻ ngoài quyến rũ và dễ mến. Thị thậm chí còn thử tán tỉnh chúng tôi trong quá trình thẩm vấn”.
Cơ quan cảnh sát điều tra Nga nói rằng trong quá trình phá án, họ đã lấy dấu vân tay của 15.000 phụ nữ và đi xa tới vận Cộng hòa Turkmenistan ở Trung á để tìm manh mối. Hồi năm 2008 họ đã bắt một phụ nữ khác và giam bà này trong vài tháng. Tuy nhiên hóa ra nhân vật đó vô tội.
Chiếc lưới đã được cất lên vào đầu tháng này, sau khi một trong số các nạn nhân bị Gaidamachuk tìm cách sát hại vẫn còn sống và có thể giúp cảnh sát vẽ nên chân dung csơ bộ của thị. Thị bị bắt còn do đã để lại dấu vân tay tại hiện trường ba vụ giết người đầu năm nay. Các dấu vân tay cũng trùng khớp với một vụ án mạng trước đó. Ngoài ra, hàng xóm của những người bị hại dễ dàng nhận ra Gaidamachuk là người phụ nữ đã tới sơn lại căn hộ cho các nạn nhân, chỉ một thời gian ngắn trước khi họ bị sát hại.
"Thật bê bối khi phải mất tới 8 năm để bắt được kẻ giết người hàng loạt" - Elena Golovenkina, người có bà mẹ 66 tuổi bị sát hại hồi năm 2002 nói - "Làm sao ai đó có thể giết một người già yếu ớt không có khả năng kháng cự theo cách thức kinh khủng như vậy?"
Vụ giết người của Gaidamachuk làm người ta nhớ lại tên giết người hàng loạt Alexander Pichushkin. Hồi năm 2007, trong phiên xử, y huênh hoang khoe rằng đã tước đi mạng sống của 48 người và điều đó khiến y thấy mình như Chúa trời. Pichushkin sau đó bị kết án chung thân và phải điều trị tâm lý. Còn trong vụ của Gaidamachuk, chưa ai rõ vì sao thị có thể ra tay "máu lạnh" tới vậy.
Tuần trước nhà chức trách đã khởi tố Gaidamachuk do phạm 17 vụ giết người. Nguồn tin thân cận với cơ quan điều tra nói rằng Gaidamachuk đã khai nhận tội lỗi không lâu sau khi bị bắt. Nếu bị cho là có tội, Gaidamachuk sẽ trở thành nữ sát thủ kinh khủng thứ 4 thế giới và đứng đầu bảng tại nước Nga.
Huyền Thoại Tsutomu Miyazaki (hay Otaku Murderer, Sát Nhân Otaku)
-Phoenix-
Nếu bạn đang có ý định tìm thông tin về đạo diễn huyền thoại Nhật Bản Hayao Miyazaki trên google bằng từ khóa “Miyazaki” thì sẽ có rất nhiều kết quả dẫn tới một người mang tên Tsutomu Miyazaki. Nhưng tôi xin khẳng định với các bạn, đây không phải là nghệ danh khác của Hayao Miyazaki, cũng không có bất kỳ liên hệ nào về nhân thân với đạo diễn tài ba này. Tuy nhiên xét về mức độ nổi tiếng thì Tsutomu Miyazaki cũng không hề kém cạnh vì đây là một cái tên được gắn với “Otaku” trong suốt gần 20 năm nay như như một điển hình của “Otaku murderer” – “Sát nhân Otaku”.
Năm 1989, một làn sóng phản đối giới Otaku bùng nổ mạnh mẽ tại chính quê hương của mình, Nhật Bản. Và kẻ châm ngòi nổ này chính là Tsutomu Miyazaki, hung thủ của các vụ giết người hàng loạt, được gán cho cái mác “Sát nhân Otaku”.
Miyazaki với vẻ bề ngoài thư sinh và được nhiều người xung quanh nhận xét là khá hiền lành, ít nói. Đặc điểm bề ngoài duy nhất khiến hắn ta “khác biệt” với người thường đó chính là đôi tay dị dạng của mình. Bị hạn chế bởi đôi tay dị dạng, Miyazaki không những cảm thấy mặc cảm, tự tin trong cuộc sống mà thường xuyên trở thành nạn nhân của bạo lực học đường. Bởi vậy cho dù là một học sinh xuất sắc, điểm số của Miyazaki tại Trường Trung học Meidai Nakano rớt hạng thảm hại. Với thành tích 40/56, Miyazaki không được nhận vào Đại học Meiji. Bởi vậy thay vì trau dồi tiếng Anh để trở thành giáo viên như ý định ban đầu, Miyazaki trở thành một kỹ sư photo.
Đằng sau vẻ bề ngoài nhút nhát và có phần lịch sự thái quá ấy, người ta khó có thể ngờ rằng Miyazaki là một con quỷ bệnh hoạn. Trong khoảng thời gian 1 năm từ 1988 – 1999, Miyazaki đã giết hại dã man 4 bé gái ở độ tuổi từ 4 đến 7. Sau khi giết hại các nạn nhân, tên sát nhân biến thái này đã giao cấu với xác của họ, sau đó uống máu và ăn thịt một phần cơ thể của một trong số các nạn nhân xấu số.
Ban ngày, Miyazaki tỏ ra là một nhân viên hiền lành, ít nói. Nhưng ban đêm hắn trở thành kẻ sát nhân biến thái trong… thời gian rảnh rỗi của mình. Giết các “con mồi” được lựa chọn một cách ngẫu nhiên trở thành thú vui bệnh hoạn của Miyazaki. Không chỉ thế, hắn còn khủng bố gia đình các nạn nhân bằng cách gửi cho họ thư và ảnh kể chi tiết những gì hắn làm với các nạn nhân. Như trường hợp của gia đình nạn nhân Erika Nanba đã nhận được một tấm bưu thiếp bệnh hoạn với những chữ “Erika. Lạnh. Ho. Họng. Yên nghỉ. Chết” được cắt ra từ tạp chí.
Miyazaki bỏ mặc xác của nạn nhân đầu tiên, Mari Konno thối rữa trên khu đồi gần nhà trong khi cắt rời tứ chi của cô bé và giữ trong nhà. Phần xương còn lại của nạn nhân được hắn đốt thành tro trong lò sưởi, sau đó trộn với bột và gửi về nhà các nhạn nhân cũng với một vài cái răng, ảnh chụp quần áo và bưu thiếp.
Cảnh sát đã tìm ra điểm chung giữa gia đình các nạn nhân, họ đều bị quấy rối điện thoại. Rất nhiều cú điện thoại không người đáp. Nếu họ không nhấc máy thì chuông có thể kêu tới hơn 20 phút.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 1989, Miyazaki đã bị bắt quả tại trận khi đang giở trò đồi bại với xác của nạn nhân cuối cùng. Ngay sau khi bắt được Miyazaki, cảnh sát đã tìm thấy trong phòng của hắn hơn 5, 763 băng video ới nội dung đồi trụy và bạo lực và cả anime, game. Lẫn trong đó là băng và hình các nạn nhân. Miyazaki còn là fan của phim kinh dị, hắn có một bộ sưu tập đồ sộ về thể loại này. Hắn bị ám ảnh bởi phim Guinea Pig và sử dụng các chi tiết trong phần 2 của series này có tự đề “Flower oh Flesh and Blood” vào các vụ giết người tàn bạo của mình. Khi bị bắt, Miyazaki tỏ ra bình tĩnh, thậm chí là khá lãnh đạm. Trong khi cha của hắn không chịu nổi phán xét về con trai mình, đã tự tử vào năm 1994.
Miyazaki bị tuyên án tử hình vào năm 1997 nhưng chỉ mới đây vào tháng 1 năm nay, kẻ sát nhân máu lạnh này mới chính thức bị đưa lên đoạn đầu đài để trả giá cho hành vi thú tính của mình.
Sau vụ án giết người hàng loạt, Miyazaki nổi lên với biệt danh “Sát nhân Otaku” và dấy lên làn sóng căm phẫn đối với giới otaku trên toàn Nhật Bản. Không còn nghi ngờ gì khi hình ảnh của tên sát nhân máu lạnh này đã trở thành hình ảnh tiêu biểu cho Otaku tại Nhật Bản. Và truyền thông đại chúng nhân cơ hội này đã “lôi” ra ánh sáng một cộng đồng bấy lâu nay sống hoàn toàn khép kín và xa lánh xã hội. Nay, họ đã trở thành một cộng đồng bị ruồng bỏ, lên án và trở thành sự sỉ nhục lớn của người dân Nhật Bản.
Đó là lý do đầu tiên để khi bạn đặt chân lên xứ sở của manga, anime, game… hãy liệt “otaku” vào danh sách những từ cấm kị. Cũng không khó khăn lắm trong việc lý giải tại sao người dân Nhật lại có thái độ như vậy đối với một cộng đồng có thể nói là “sản phẩm” của nền công nghiệp giải trí bạc tỉ của mình? Tại sao sau bấy nhiêu năm, khi rất nhiều Otaku cố đưa những nhân vật anh hùng giải cứu thế giới lên màn ảnh nhỏ lại không thể tự cứu lấy mình trong trận chiến này?
NGHI THỨC : 100 ngọn nến
-Phoenix-
Đây là một nghi thức cổ điển Nhật Bản đã triệu tập một con ma, gọi là Hyaku-Monogatari (Hyaku = trăm, Monogatari = Tale).
Các phiên bản hiện đại (thực hành kể từ Edo-kỳ)
Chuẩn bị một trăm ngọn nến.
Bạn sẽ cần một nhóm người, lên đến một trăm trong số.
Ngồi trong một vòng tròn. Ánh sáng tất cả các ngọn nến và đặt chúng ở trung tâm của vòng tròn.
Hãy chắc chắn rằng phòng không có nguồn sáng tiết kiệm mà của những ngọn nến.
Từng người một, nói với nhau những câu chuyện ma. Khi mỗi câu chuyện kết thúc, thổi ra một ngọn nến.
Khi một trăm câu chuyện ma được kể và tất cả các ngọn nến được đưa ra khỏi phòng hoàn toàn tối đen, một con ma sẽ xuất hiện ở giữa của vòng tròn.
Các Phiên bản cổ đại (từ một nguồn được viết trong AD1666)
Các nghi lễ nên được thực hiện tại New Moon.
Chuẩn bị ba phòng (hoặc nếu đó là không thể, hai phòng là đủ), liền kề với nhau. Tốt hơn các phòng này phải được sắp xếp theo một cách mà họ vẽ các hình chữ "L" khi nhìn từ trên cao.
Các phòng, trong đó nhóm thu thập phải được hoàn toàn đen tối; phòng tiếp theo tương tự như vậy. Căn phòng thứ ba nên chứa một trăm Andon (một chiếc đèn lồng với một ngọn lửa và giấy bằng gỗ bóng râm) và nhân bản trên một bảng.
Các giấy mà Andon được làm nên màu xanh. Tất cả những người tham gia cũng phải được bộ quần áo màu xanh, và tất cả nên vào phòng đầu tiên mà không mang theo thanh kiếm. Dứt bất kỳ loại vũ khí khác và các đối tượng nguy hiểm như vậy ra khỏi phòng (mặc dù đã có một số người sẽ tô điểm cho căn phòng với một thanh kiếm để xua đuổi tà)
Khi một câu chuyện được kể, người kể chuyện phải dò dẫm theo cách của mình trong bóng tối để phòng thứ ba, nơi ông là đưa ra một Andon, nhìn mình trong gương, và quay trở lại căn phòng đầu tiên một lần nữa. Nhóm được phép tiếp tục kể chuyện trong khi người kể chuyện trước đó là đi. Những câu chuyện ở đây không phải chỉ về hồn ma hay quái vật; họ có thể là những câu chuyện về bí ẩn hay một lời nguyền. Khi tất cả các câu chuyện được kể và bóng tối thực sự đi xuống, một cái gì đó siêu nhiên sẽ xảy ra.
Trong thực tế, khi họ sử dụng để thực hiện các nghi lễ như vậy, họ thường dừng lại ở câu chuyện thứ 99 và chờ đợi cho đến khi bình minh. Đó là bởi vì các mục đích thực sự của nghi lễ là để kiểm tra sự can đảm của một người, và họ không muốn nguy cơ thực sự triệu tập một thế lực siêu nhiên.
Những hình ảnh ở phía trên cho thấy một Andon xanh.
Những hình ảnh trên bên trái cho thấy Ao-Andon (Blue Andon), một trong những con quái vật được nói đến xuất hiện ở phần cuối của Hyaku-Monogatari.
NGHI THỨC : Daruma- san
-Phoenix-
Bước 1: Trước khi bạn đi ngủ vào buổi tối, hãy cởi quần áo ra và đi vào phòng tắm.
Bước 2: Đổ đầy nước vào bồn rồi tắt đèn.
Bước 3: Ngồi vào giữa bồn tắm, mặt đối diện với vòi nước.
Bước 4: Vừa rửa sạch tóc vừa lặp đi lặp lại câu: "Daruma-san ngã xuống. Daruma-san ngã xuống."
Bước 5: Khi bạn đang thực hiện bước 4, trong tâm trí của mình, bạn hãy tưởng tượng về hình ảnh một phụ nữ Nhật Bản đang đứng trong bồn tắm. Cô ta trượt chân và tè xuống trúng một cái vòi nước gỉ. Cái vòi nước thọc xuyên qua mắt và giết chết cô ta.
Bước 6: Tiếp tục nói: "Daruma-san ngã xuống. Daruma-san ngã xuống” cho đến khi bạn rửa xong tóc của mình. Bạn PHẢI nhắm mắt mình lại.
Bạn có thể nghe hoặc cảm thấy những chuyển động nhẹ ở phần nước phía sau. Tiếp tục nhắm mắt. Không được nhìn trộm. Bạn vừa triệu hồi một con ma…
Con ma mà bạn vừa gọi có hình dạng của một người phụ nữ vừa trồi lên khỏi mặt nước… Và cô ta đang đứng sau lưng bạn. Bạn sẽ cảm thấy được sự hiện diện của cô ta, khi cô ta nhìn chằm chằm vào bạn, đầu cô chỉ ngay đằng sau vai phải của bạn. Cô ta có một mái tóc đen, dài và rối. Quần áo thì tả tơi, mục nát. Cô ta chỉ có một mắt. Mắt trái của cô ta luôn mở ta và đỏ ngầu. Cô ta không tìm được mặt phải của mình, cho nên bên mắt phải của cô ta chỉ là một hốc mắt đẫm máu và trống rỗng…
Bước 7: Khi bạn cảm nhận được sự hiện diện của hồn ma đó, hãy nói thật to: "Tại sao cô lại ngã trong bồn tắm?"
Bước 8: Tiếp tục nhắm mắt thật chặt, đứng dậy, đi ra khỏi nhà tắm. Hãy cẩn thận để không bị trượt hoặc ngã. Rời khỏi phòng tắm ngay lập tức và đóng cửa lại. Bây giờ bạn có thể mở mắt được rồi. Để nước trong bồn qua hết đêm nay. Giờ hãy đi ngủ…
Sáng hôm sau, khi bạn vừa thức dậy, trò chơi sẽ bắt đầu. Hồn ma của cô gái một mắt sẽ theo bạn. Bất cứ khi nào bạn quay lại nhìn, cô ta sẽ biến mất. Suốt cả ngày, bất cứ khi nào bạn nhìn qua vai phải mình, bạn sẽ thường xuyên bắt gặp một cái nhìn thoáng qua của cô ta. Càng lúc cô ta sẽ đến gần hơn và gần hơn. Không được để cô ta bắt bạn.
Nếu bạn liếc qua vai phải và thấy cô ta đứng quá gần, hãy hét lên: "Tomare!" - có nghĩa là "Dừng lại!". Sau đó chạy càng nhanh càng tốt. Điều này cho phép bạn đặt khoảng cách giữa bản thân và cô ta.
Để kết thúc trò chơi, bạn phải bắt được một cái nhìn từ hồn ma đó và hét lên "Kitta!" - có nghĩa là "Ta “cắt đuôi” mi rồi!" - sau đó đặt bàn tay của mình ra trước mặt bạn và vung tay như đang cắt một cái gì đó (như động tác chặt trong karate ấy!).
Bạn nên kết thúc trò chơi này trước nửa đêm. Nếu không, hồn ma một mắt sẽ xuất hiện trong giấc mơ của bạn và đi bạn mãi mãi.
Luật chơi:
+) Không được mở mắt khi con ma xuất hiện lần đầu tiên.
+) Không được để con ma làm bạn trượt chân khi bạn đang đi ra khỏi nhà tắm.
+) Đừng quay lại vào phòng tắm sau khi bạn đã đi ra.
+) Không được xả bồn tắm cho đến khi mặt trời mọc.
+) Không được để cô ta bắt kịp bạn.
+) Và điều cuối cùng:
Bạn không nên chơi trò này. Nó rất rất nguy hiểm. Triệu hồi ma quỷ có thể gây ra cho bạn một cái chết rất khủng khiếp hoặc bạn sẽ bị linh hồn đó ám ảnh cả đời. Bạn cũng có thể làm mình bị thương hoặc tự giết chính mình nếu lỡ bị trượt chân hoặc té trong phòng tắm. Và nếu bạn không thể kết thúc trò chơi đúng cách, con ma đó sẽ tiếp tục đi theo bạn cho đến hết đời... Nói chung là: Bạn không chơi trò này (trừ phi gan bạn to hơn quả tên lửa).
NGHI THỨC : Khi bạn làm vỡ gương
-Phoenix-
Không khuyến khích làm theo!
Nếu bạn làm vỡ một cái gương và cảm thấy có gì đó xui xẻo, đừng nghĩ là trùng hợp, chúng là do gương vỡ gây ra. Người ta nói, khi nhìn vào gương, một năng lượng tiêu cực từ mắt sẽ vào trong gương, khi gương vỡ, những năng lượng đó sẽ vỡ òa ra và gây nên xui xẻo. Nhưng vẫn có 1 cách để tránh được nó...
Nghi thức chỉ có tác dụng trước 6h chiều. Những thứ cần chuẩn bị:
1/ Gương (Cái nào cũng được, khuyến khích sử dụng gương cũ)
2/ Nến (Size vừa đủ xài là được)
3/ Vài người bạn (Càng nhiều thì bạn càng có cơ hội sống)
Đầu tiên hãy ngắm lại mình trong cái gương đó, sau đó rướn người tới và thở vào gương, như thế gương sẽ nhận được nhiều năng lượng tiêu cực hơn, tất cả những người tham gia đều phải làm 2 bước trên (1 người làm cả 2 bước rồi tới người tiếp theo) để sang bước tiếp theo. Bước thứ hai, đốt nến và dí vào gương cho tới khi nào chỗ đó có những vệt đen là được, nhưng đừng rút quá sớm hay để quá lâu. Khi đã hoàn tất các bước trên, hãy phá vỡ cái gương! Khuyến khích nên chạy ngay lập tức.
Đêm đó, xui xẻo sẽ tới với bạn từng giờ từng giây theo mức tăng dần, có thể là vấp ngã hay gì đó nhưng càng về sau càng nguy hiểm và có thể chết, những người tham gia đều bị. Năng lượng tiêu cực đó sẽ theo hơi thở của bạn, hiểu ý tôi chứ? Hãy nín thở! Càng lâu càng tốt.
Nếu bạn sống sót qua đêm đó, sáng mai khi ánh nắng đã chiếu vào mặt bạn, đã đến lúc bắt đầu ngày mới, không còn những điều xui xẻo của đêm ác mộng, mà là chuỗi vận may sẽ tới với bạn.
3/6/16
Lời Nguyền Mae Nak Phra Khanong (Lời nguyền nàng Nak)
-Phoenix-
Mae Nak Phra Khanong (tiếng Thái: แม่นากพระโขนง, "Mae" là một từ cổ trong tiếng Thái, nó thường đứng trước tên một người phụ nữ), còn được gọi là "Nàng Nak của Phra Khanong"), hoặc đơn giản là Mae Nak (tiếng Thái: แม่นาก, "Nàng Nak") hay Nang Nak (tiếng Thái: นางนาก, "Cô Nak"), là một hồn ma nổi tiếng ở Thái Lan. Theo dân gian, đó là một câu chuyện dựa trên một sự kiện có thật xảy ra vào những năm đầu của thế kỷ 19.
Người ta cho rằng mỗi người dân Thái đều biết đến câu chuyện về Mae Nak, và hầu hết cư dân ở Bangkok đều biết đến sự hiện diện của ngôi miếu thờ Mae Nak, nó nằm cạnh một con kênh tại quận Pra Khanong, Bangkok. Nhiều tác phẩm nghệ thuật đã lấy cảm hứng từ Mae Nak, một vài trong số đó đã tạo nên sức hút lớn cho khán giả, điều đó thể hiện mối quan tâm đặc biệt của người dân Thái đối với câu chuyện về Mae Nak.
Không có bằng chứng lịch sử chắc chắn về sự tồn tại của câu chuyện. Tuy nhiên, hầu hết người Thái có xu hướng tin rằng câu chuyện về Mae Nak là có thật, hoặc ít nhất là một số chi tiết. Theo truyền thuyết, chuyện xảy ra trong thời gian trị vì củavua Rama IV (1851 - 1868) hoặc vua Rama III (1841-1851). Có một cô gái trẻ xinh đẹp tên là Nak sinh ra tại huyện Phra Khanong thuộc Bangkok, xuất thân của cô là con gái của một vị trưởng xã. Cô cùng lớn lên và yêu một chàng trai tuấn tú tên Mak, nhưng vì Mak quá nghèo, nên người cha giàu có và đầy quyền lực của cô đã ngăn cấm hai người yêu nhau. May mắn thay, cuối cùng họ cũng trở thành vợ chồng.
Khi Nak có bầu, Mak bị gọi đi lính để ra chiến trường trong khi vợ anh phải sống một mình (một số phiên bản thì gọi đây là cuộc chiến tranh chống lại người Shan, các bản khác không nói rõ), anh bị thương nặng trong khi chiến đầu nhưng may mắn thoát chết. Trong khi Mak đang được chăm sóc vết thương để có thể trở lại quê nhà, Nak và đứa bé trong bụng đã chết khi cô cố gắng sinh con. Hai mẹ con sau đó được dân làng chôn cất theo tập tục của địa phương. Nhưng vì tình yêu vô hạn dành cho người chồng, linh hồn của Nak vẫn loanh quanh ở nhà, cô chờ đợi Mak. Khi Mak về tới nhà, anh vui mừng gặp lại vợ và đứa con mới chào đời. Biết chuyện, hàng xóm và mọi người đã cố gắng cảnh báo rằng Mak đang sống với một con ma và rằng vợ con anh đã chết từ lâu, nhưng Mak không tin chuyện đó và anh vẫn tiếp tục sống với vợ mình như trước đây.
Một ngày nọ, Nak đang chuẩn bị món nước chấm trước bữa ăn, bất thình lình, cô làm rơi một trái chanh (cũng có bản nói là con dao) ra ngoài hiên nhà. Trong lúc vội vã, cô đã kéo dài cánh tay của mình ra ngoài hiên để nhặt trái chanh ở xa dưới đất. Mak nhìn thấy cảnh tượng kỳ dị đó và cuối cùng cũng nhận ra người vợ của mình là một con ma. Quá sợ hãi, Mak cố gắng tìm mọi cách để chạy trốn mà không để cho Nak biết.
Một buổi tối nọ, Mak nói với vợ anh phải xuống nhà để đi tiểu. Thoát khỏi vợ, anh nhanh chóng chạy vào trong bóng đêm. Khi phát hiện chồng mình đã chạy trốn, Nak quyết định đuổi theo bắt anh quay về. Mak thấy vợ và cố che thân mình bằng cách núp sau một bụi Đại bi (Nat; หนาด). Theo dân gian Thái, ma quỷ rất sợ chạm phải lá Đại bi.
Trong sự đau khổ tột cùng, Nak đã nguyền rủa tất cả dân làng tại Phra Khanong, cô giận dữ vì cho rằng chính họ là nguyên nhân khiến Mak rời bỏ cô, cô giết bất cứ người nào ngăn cản cô và Mak sống với nhau. Dân làng đã rất sợ hãi và cuống cuồng tìm kiếm nhiều vị pháp sư giúp đỡ. Có phiên bản nói rằng Mak tái hôn sau cái chết của Nak. Nak ghen tuông và rất tức giận, cô tìm cách phá phách cặp vợ chồng mới cưới. Một tình tiết quan trọng được nhắc đến tất cả các phiên bản là Mak đã chạy tới chùa Wat Mahabut, và anh được che chở bởi một nơi rất linh thiêng, ma quỷ không thể xâm phạm được. Sau đó, hồn ma của Nak bị một vị pháp sư đầy quyền năng thu phục. Ông nhốt cô vào một cái bình bằng đất nung và ném xuống một con kênh. Có nhiều đoạn kết khác nhau của câu chuyện, một trong số đó kể rằng một cặp vợ chồng ngư dân nọ mới chuyển đến sống ở Phra Khanong không biết chuyện hồn ma của Nak, trong lúc bắt cá họ đã tìm thấy chiếc bình đất nọ và tò mò xem có gì ở trong đó. Nak được giải thoát khi họ cố mở nắp chiếc bình.
Tuy nhiên, Nak lại bị thu phục một lần nữa bởi nhà sư Somdej Toh, vị sư được kính trọng nhất đất nước Thái lúc bấy giờ. Để chế ngự hồn ma Nak, ông đã cắt một phần trán của cô để gắn vào dây lưng của mình và đeo nó cho đến cuối đời. Truyền thuyết cho rằng chiếc dây thắt lưng hiện đang thuộc sở hữu của gia đình hoàng gia Thái Lan. Đô đốc Aphakonkiattiwong, hoàng tử của Chumphon, cũng xác nhận là có di vật này. Trong cái kết ở một phiên bản khác, nhà sư đã khuyên giải Nak rằng trong tương lai cô sẽ được đoàn tụ với người chồng yêu quý của mình, và vì thế Nak đã tự nguyện ra đi về thế giới bên kia.
Ghi chép về Mae Nak xưa nhất trên báo chí là một bài báo được viết bởi K.S.R Kularb của báo Siam Prapet, xuất bản ngày 10 tháng 3 năm 1899. Tác giả đã dành ra một trang rưỡi để trả lời một độc giả của báo khi người này hỏi về "quỷ Nak". Bài báo cho rằng câu chuyện của Mae Nak diễn ra vào thời kỳ vua Rama III, nó dựa trên cuộc đời của Amdaeng Nak (อำแดง นา ก, "Cô Nak"), cô sống cùng người chồng tên Chum, ngôi nhà của họ nằm cạnh con kênh Phra Khanong. Nak qua đời khi cô đã mang thai. Sau đó, người chồng chôn vợ trong trong nghĩa trang của chùa Mahabusaya. Con trai của cô vì lo lắng rằng cha sẽ tái hôn và tài sản thừa kế của mình sẽ bị chia sẻ với mẹ kế, vì vậy anh đã đồn thổi về những câu chuyện ma. Để thuyết phục hơn, anh ta thuê nhiều người đàn ông ném đá vào tàu thuyền đi ngang qua nghĩa trang - nơi chôn cất mẹ mình, đồng thời mặc quần áo phụ nữ để hù họa người khác, làm cho mọi người tin rằng hồn ma Nak đã gây ra điều đó. Sau khi việc bị bại lộ, người con đã thừa nhận mọi chuyện. Đây vẫn là một nghi vấn cho đến nay vì không ai xác thực được câu chuyện được nói đến trong bài báo.
Miếu thờ Mae Nak được cho là nơi chôn cất thi thể hai mẹ con Mae Nak. Ngôi miếu được xây dựng vào cuối thời kỳ Ayutthaya và nằm trong khuôn viên chùa Wat Mahabut, nó nằm sát cạnh con kênh Khanong Phra. Trung tâm của ngôi miếu đặt tượng của Mae Nak bế đứa trẻ sơ sinh. Trang trí trong miếu trông giống như một ngôi nhà của cô, bên trong nó chứa các vật phẩm như vòng hoa, trang phục Thái, mỹ phẩm, tã giấy, bình sữa và đồ chơi cho trẻ em, chúng được các tín đồ đến cầu nguyên dâng tặng cho Mae Nak và con trai của cô. Những bức chân dung của Mae Nak được đặt trong khu vực trung tâm miếu thờ. Một bộ sưu tập trang phục đẹp dành cho cô được xếp phía sau bức tượng của Mae Nak.
Miếu được nhiều tín đồ thường xuyên cúng bái, họ thường đến đây để cầu xin Mae Nak che chở và giúp đỡ, thường là phụ nữ sẽ cầu được thụ thai hoặc sinh con dễ dàng. Chính vì nỗi bất hạnh của cô bị gây ra bởi việc đi lính, nên Mae Nak được cho là rất ghét hình thức này, người dân tin rằng nếu cầu xin Mae Nak, cô sẽ giúp cho họ thoát được việc phải đi nghĩa vụ quân sự. Vì sự linh thiêng của miếu thờ Mae Nak, những người chơi số đề hay tìm đến để xin số, họ sẽ xin số bằng cách đưa tay vào một cái lọ bằng đất sét, rút ra nhiều số, hoặc cào vào vỏ một cây bất kỳ trong miếu để tìm số. Ngoài ra, người ta còn tổ chức hẳn những chuyếndu lịch tham quan miếu thờ Mae Nak.
Nhiều nghi lễ cúng bái cũng được thực hiện tại kênh Phra Khanong nằm cạnh miếu, ở đây cá sống được bày bán tại các gian hàng để khách có thế mua và phóng sinh xuống kênh. Nhiều gian hàng khác tại đền thờ bán đồ chơi, búp sen, nhang, tranh vẽ, vòng hoa,... dành cho những người muốn cúng bái. Sau thành công của bộ phim Tình Người Duyên Ma, một bộ phim dựa theo câu chuyện về Mae Nak ra mắt năm 2013 với nữ diễn viên chính Davika Hoorne, cũng là một tín đồ, đã tới miếu thờ Mae Nak và thực hiện một điệu nhảy kiểu Thái để tỏ lòng biết ơn linh hồn Nak sau khi doanh thu của bộ phim đạt 10 triệu USD. Cô tin rằng Mae Nak đã giúp đỡ để bộ phim đạt được thành công như vậy.
Câu chuyện về Mae Nek là chủ đề cho rất nhiều bộ phim điện ảnh, phim truyền hình và các ấn phẩm khác. Năm 1911, một vở nhạc kịch mang tên "E Nak Prakanong" đã tạo nên một cơn sốt với người dân Thái, một số chi tiết trong vở diễn đã trở thành đặc trưng kinh điển của câu chuyện về Mae Nak mỗi khi nó được nhắc tới, bao gồm cả tên người chồng là Mak. Bên cạnh đó là các tình tiết rùng rợn như việc Mae Nak giết chết người hàng xóm đi mách lẻo, và kéo dài cánh tay thon dài của mình để nhặt trái cây. Có khoảng gần 30 bộ phim lấy cảm hứng từ câu chuyện của Mae Nek, trong đó bộ phim sớm nhất ra đời vào những năm 1930. Năm 1999, bộ phim Nang Naksau khi công chiếu đã trở thành bộ phim có doanh thu cao nhất thời điểm bấy giờ. Gần đây nhất, năm 2013 bộ phim Tình người duyên ma dựa theo truyền thuyết về Mae Nek ra mắt khán giả, nó cũng nhanh chóng trở thành bộ phim ăn khách nhất trong lịch sử điện ảnh Thái Lan.
Lời Nguyền Cửu Long Bảo Kiếm của Càn Long Đại Đế Tôn
-Phoenix-
Mộ tặc này đã từng khiến cho vị vua cuối cùng của nhà Thanh là Phổ Nghi tức giận đến mức suýt thổ huyết, còn thề sẽ không bỏ qua cho Tôn Điện Anh.
Những vật báu quý giá chính là mục tiêu hàng đầu của kẻ đạo mộ, bởi giá trị của một món bảo bối cũng đủ để phát tài. Nhưng trên thực tế, không phải ai cũng có may mắn đào được những thứ đồ trân quý như vậy.
Bên trong nơi an nghỉ của cổ nhân thường chứa đựng một số thứ thuộc về “tà môn”. Cửu Long bảo kiếm chính là một minh chứng cho điều này.
Đây là thứ binh khí được Tôn Điện Anh đào lên từ lăng mộ của Hoàng đế Càn Long vào năm 1928. Kiếm dài 5 xích, chế tác phỏng theo hơi hướng của kiếm Mông Cổ nên có lưỡi cong sắc bén.
Vỏ kiếm được làm từ da cá mập, phía trên khảm đầy hồng ngọc, ngọc bích và kim cương. Trên thân kiếm chạm khắc hình chín con thần long uốn lượn, tượng trưng cho hàm ý “cửu cửu quy nhất”.
Theo quan niệm của Đạo gia, “cửu cửu quy nhất” biểu thị cho sự luân hồi. Hoàng đế Càn Long cho rằng giống như kiếp người, triều đại cũng có thể luân hồi, nên mới hạ lệnh làm ra thanh kiếm với ước nguyện vương triều Đại Thanh mãi mãi trường tồn.
Tương truyền rằng, Cửu Long bảo kiếm mang nhiều âm khí tựa như có oan hồn trú ngụ. Xung quanh thân kiếm luôn tỏa ra sương mù, chín con rồng khắc trên đó uốn lượn vần vũ. Đây vốn là thanh kiếm thuộc về cõi âm, dùng trên dương thế chính là trái với quy luật.
Lai lịch của Cửu Long bảo kiếm cho tới nay vẫn còn nhiều điều bí ẩn. Nhưng điều khiến cho hậu thế không khỏi khiếp sợ chính là lời nguyền chết chóc ẩn giấu bên trong thanh kiếm này.
Năm xưa, Tôn Điện Anh vì muốn tiêu trừ tang chứng để chạy tội, liền nghĩ ra cách đem đồ trân bảo trộm được tặng cho các “yếu nhân” (nhân vật chủ chốt) trong Quốc Dân Đảng.
Viên bảo thạch trong miệng Từ Hy được họ Tôn này tặng cho Tống Mỹ Linh, còn Cửu Long bảo kiếm được y giao cho Đới Lạp để chuyển tới tay Tưởng Giới Thạch. Đây cũng là khởi điểm cho lời nguyền “ai chạm qua đều chết” ứng nghiệm trên thanh kiếm.
Đới Lạp có trong tay bảo vật nhưng lại sợ bị mất nên giao cho Mã Hán Tam (khi ấy là Chủ nhiệm Văn phòng Quân thống cục Bình Tân) cất giữ. Họ Mã có trong tay bảo vật liền nổi dã tâm, một mực muốn biến Cửu Long bảo kiếm thành của riêng
Tuy nhiên vào năm 1940, Hán Tam bị rơi vào tay quân Nhật. Để bảo toàn tính mạng, họ Mã đã cắn răng tặng thanh kiếm này cho Sở Mật vụ Nhật Bản. Cửu Long bảo kiếm sau đó về tay của nữ điệp viên người Nhật là Kawashima.
Sau này, Kawashima rơi vào tay Quốc Dân Đảng. Khi bị Đới Lạp tra khảo, nữ điệp viên này có nhắc tới việc Mã Hán Tam giao nộp Cửu Long bảo kiếm. Mã Hán Tam quả thực khai nhận hành vi này. Cửu Long bảo kiếm lần thứ hai trở về tay họ Đới.
Như vậy, từ khi rời khỏi lăng mộ Càn Long, bảo kiếm này đã qua tay bốn người: Tôn Điện Anh, Đới Lạp, Mã Hán Tam và Kawashima. Điều khiến hậu thế không khỏi rùng mình là cả bốn người trên đều phải chịu những kết cục thảm khốc.
Ngày 17 tháng 3 năm 1946, Đới Lạp mang theo Cửu Long bảo kiếm lên chuyến máy bay khởi hành tới Nam Kinh để gặp Tưởng Giới Thạch. Nhưng do thời tiết đột ngột trở xấu, máy bay đâm vào đỉnh núi Giang Ninh và bốc cháy dữ dội.
Khi nông dân trong vùng tìm đến nơi, thanh bảo kiếm đã cháy không ra hình thù. Mọi người đều nghĩ là di vật của người quá cố nên an táng trong quan tài cùng thi thể của Đới Lạp.
Vì làm nhiều điều xấu, mộ của họ Đới sau đó bị san bằng. Tung tích thanh kiếm cũng biệt tăm từ đó, nhưng lời nguyền của nó vẫn liên tục ứng nghiệm.
Nữ điệp viên Kawashima bị xử án tử hình. Mã Hán Tam chết do trúng đạn trên đường chạy trốn. Tôn Điện Anh – kẻ “đầu xỏ” mang thanh kiếm tới dương thế cũng chết trong một trại tù binh của quân giải phóng.
Dù vậy, giai thoại về thanh bảo kiếm của cõi âm này cũng chưa vì thế mà dừng lại. Tương truyền rằng, năm xưa Tôn Điện Anh trước khi trộm mộ có gặp một vị cao tăng.
Theo lời của vị cao tăng này thì Nhật Bản đã hiện rõ cái thế “luân hồi”, kiếm Cửu Long phải được đưa ra khỏi mộ Càn Long mới giúp Trung Hoa có thể tránh được kiếp nạn bị ngoại tộc xâm lược lần thứ hai.
Kết quả là bốn năm sau ngày Tôn Điện Anh quật mộ, “Ngụy Mãn Châu quốc” được thành lập. Năm năm sau đó xảy ra biến cố tại cầu Lư Câu (sự kiện Lư Câu kiều) cùng với lời thách thức “ba tháng sẽ tiêu diệt Trung Hoa” từ Nhật Bản.
Tám năm kể từ ngày đó, Cửu Long bảo kiếm biến mất, “Ngụy Mãn Châu quốc” cũng sụp đổ.
Mang hàm ý của sự luân hồi, nhưng Cửu Long bảo kiếm không hoàn thành ước nguyện chấn hưng vương triều của Càn Long, mà lại bị cháy thành một mảnh sắt vụn để rồi biến mất cùng “nạn nhân” của mình.
Mặc dù chỉ là những câu chuyện được truyền tai nhau trong những lúc “trà dư tửu hậu”, nhưng giai thoại về lời nguyền của thanh bảo kiếm trong mộ Càn Long này vẫn khiến người đời không khỏi rùng mình mỗi khi nhắc đến.
Lời Nguyền Biệt Thự Đảo Gaiola (Isola della Gaiola)
-Phoenix-
Hiện tượng bí ẩn xảy ra tại đảo Gaiola (tiếng Ý là Isola della Gaiola) nằm ở thành phố Naples – Ý, thuộc vịnh Naples, trung tâm khu vực Gaiola Underwater Park với diện tích tổng thể khoảng 42 ha.
Điều ấn tượng ở đảo Gaiola là mặc dù có 2 đảo nhỏ nằm gần nhau nhưng chỉ có một biệt thự duy nhất và để nối hai đảo nhỏ người ta cho xây dựng một cây cầu nhỏ, cây cầu rất đẹp mà nhìn từ xa dễ nhầm tưởng đó là một vòm đá tự nhiên.
Ban đầu đảo có tên là Euplea – tên một vị thần luôn bảo vệ cho những người đi biển. Sau này người ta mới đổi lại thành Gaiola, theo tiếng địa phương có nghĩa là “hang động nhỏ”, do trên đảo có khá nhiều hang hốc.
Trên đảo còn có một ngôi đền nhỏ để thờ nữ thần sắc đẹp Venus. Ngoài ra, nơi đây vẫn còn một số di tích từ thời La Mã.
Đặc biệt dưới chân hòn đảo, người ta tìm thấy rất nhiều kiến trúc La Mã bị chìm sâu dưới nước. Một số người cho rằng nhà thơ Virgil đã từng đến hòn đảo này để dạy học.
Các hiện tượng bí ẩn lần lượt xảy ra vào thế kỷ 19 khi người dân địa phương chứng kiến nhiều cái chết không lý do của những chủ nhân ngôi biệt thự trên đảo.
Khoảng những năm 1920, một người Thụy Sĩ tên Hans Braun sở hữu căn biệt thự. Người này được tìm thấy bị giết hại dã man và bọc thi thể trong một tấm thảm. Một thời gian ngắn sau đó, vợ của ông Braun cũng bị chết đuối ngoài biển.
Nạn nhân tiếp theo là một người Đức tên Otto Grunback, qua đời vì chứng đau tim. Những cái chết bí ẩn chưa dừng ở đó, tiếp theo là Mauric Yves Sandoz - người đã tự tử trong một bệnh viện tâm thần ở Thụy Sĩ.
Tiếp đến là ông chủ tập đoàn xe Fiat – Gianni Agnelli cũng chung số phận. Sau cái chết bất ngờ của Gianni Agnelli, người con trai duy nhất của ông cũng tự tử và cháu trai ông qua đời vì mắc một căn bệnh ung thư cực hiếm gặp.
Người chủ sở hữu khác của hòn đảo, tỉ phú Paul Getty có phần ít bị ảnh hưởng bởi lời nguyền hơn khi cháu nội ông bị bắt cóc. Và đến người chủ cuối cùng của hòn đảo, Gianpasquale Grappone, bị bắt giam khi công ty bảo hiểm của ông làm ăn thất bại.
Từ đó đến nay, căn biệt thự trở nên hoang phế và không có người nào dám vào ở. Hòn đảo Gaiola vẫn bị bỏ hoang cho đến ngày nay dù cho khung cảnh thanh bình và vẻ đẹp nao lòng của nó.
2/6/16
Huyền Thoại Anthony Sowell (The Nickname Master Killer, Kẻ Sát Nhân Biệt Hiệu Ông Chủ)
-Phoenix-
Trong nhiều tháng, cảnh sát Mỹ đã bí mật theo dõi một đối tượng chuyên đăng nhập vào các trang mạng hẹn hò với nickname “Master”. Trên diễn đàn của những người hẹn hò online này, đối tượng trên đã khoe khoang thành tích giường chiếu của mình và có nhiều dấu hiệu đã xâm hại tình dục nhiều phụ nữ. Sự thật được khám phá còn kinh khủng hơn thế.
Anthony Sowell, 50 tuổi sống trong một căn nhà nhỏ sơn trắng ở Cleveland. Hắn đã dọn đến và một mình làm chủ ngôi nhà này kể từ khi người cô ruột dọn đến sống ở nhà dưỡng lão.
Theo lời Anthony kể với hàng xóm, từ năm 19 tuổi, ông ta đã phục vụ trong Thủy quân Lục chiến từ 1978 đến 1985 và từng đóng quân tại Nhật Bản. Không nghề nghiệp chính thức, ông ta kiếm sống bằng nghề dọn vườn cho các gia đình xung quanh. Chẳng mảy may nghi ngờ về người đàn ông kín đáo có thói quen chạy bộ buổi sớm này, nhiều người dân trong vùng vẫn thỉnh thoảng mời đến trông nhà và chăm sóc vườn tược khi họ đi nghỉ mát.
Thế nhưng có một bí mật mà không một ai trong số những người sống trong khu vực biết trừ cảnh sát trưởng của hạt. Anthony vừa mới ra tù năm 2005 sau khi mãn án 15 năm vì hành vi hãm hiếp một cô gái 21 tuổi mà hắn lừa vào nhà hồi năm 1989. Và bí mật của hắn càng được giữ kín sau khi viên cảnh sát này bất ngờ qua đời trong một tai nạn giao thông. Hàng xóm cũng chẳng hề lo ngại gì khi thấy Anthony thường xuyên đi nhà thờ và tỏ ra rất nhã nhặn với những người hắn gặp tại quán rượu ở thị trấn. Tất cả chỉ là mặt nạ của một con quỷ đội lốt người. Và Anthony chính là “Master”
Sự thật chẳng thể nào được khám phá nếu không có sự kiện ngày 22-9-2009, một phụ nữ tìm đến đồn cảnh sát địa phương tố cáo Anthony đã cưỡng bức cô ta khi mời cô về nhà sau một bữa tiệc. Để xác minh lời tố cáo, cảnh sát đã đến nhà của Anthony thẩm vấn người đàn ông này. Anthony không có nhà, nhưng những gì nhà chức trách phát hiện trong nhà hắn đã khiến người ta bàng hoàng. Ngay tại phòng khách, cảnh sát đã tìm thấy hai thi thể phụ nữ lõa lồ đang bắt đầu phân hủy. Một lệnh bắt khẩn cấp được ban bố toàn liên bang, và chỉ 2 ngày sau, Anthony bị bắt khi đang tìm đường trốn chạy. Tại cơ quan điều tra Anthony khai rằng qua trang mạng hẹn hò, hắn lừa các nạn nhân là các phụ nữ độc thân, thường là những người không nhà hoặc sống một mình và có sử dụng ma túy hoặc nghiện rượu, tới nhà và cho họ uống say và rồi tấn công họ.
Kết quả khám nghiệm hiện trường càng khiến các điều tra viên kinh hãi. Trong vườn nhà, cảnh sát đã tìm thấy một ngôi mộ mới đắp, mà khi khai quật lên người ta tìm thấy 2 xác chết khác đã biến dạng. Cuộc tìm kiếm các nạn nhân mở rộng và con số thi thể tìm được thật kinh hoàng: 11 xác người, tất cả đều là phụ nữ và đều bị sát hại một cách dã man. Có những nạn nhân bị siết cổ đến chết trong khi những người khác bị đập vỡ sọ. Việc nhận dạng các nạn nhân rất khó khăn vì hầu hết nạn nhân đều đã bị giết cách đây nhiều tháng.
Ngày 1-12-2009, Anthony Sowell ra hầu tòa với cáo trạng giết người và hãm hiếp. Trước sự phẫn nộ của người dân, phiên tòa của hắn được tiến hành tại một nhà tù có bảo vệ nghiêm ngặt và chỉ được truyền hình ra ngoài qua hệ thống video. Luật sư bào chữa được chỉ định đã từ chối bào chữa và hắn đã phải chịu mức án cao nhất: tử hình bằng cách tiêm thuốc độc.
Huyền Thoại Andrei Chikatilo (The Soviet Killer, Sát Nhân Sô Viết)
-Phoenix-
Dưới chính thể Xô viết trước đây, nhờ làm tốt công tác trật tự trị an nên dạng tội phạm giết người hàng loạt hầu như không có. Duy nhất chỉ có trường hợp của tên sát nhân người Ukraina Andrei Chikatilo, được coi là "vụ án nổi cộm" trong lịch sử điều tra hình sự Liên Xô.
ANDREI CHIKATILO sinh ngày 16/10/1936 tại làng Iablonchnoe thuộc Ukraina. Vốn học giỏi trong trường phổ thông, nhưng Andrei đã bị trượt trong kỳ thi vào Trường đại học Tổng hợp Moskva. Sau khi rớt đại học, Andrei tham gia nghĩa vụ quân sự như mọi thanh niên cùng trang lứa khác. Đầu năm 1960, Andrei giải ngũ và làm việc tại thành phố Rodionovo-Nesvetaevski với vai trò kỹ thuật viên điện thoại. Giữa năm 1963, Andrei cưới vợ và lần lượt sinh được hai cô con gái.
Trong năm 1971, Andrei Chikatilo nhận được Chứng chỉ sư phạm sau khi hoàn thành khóa học hàm thụ về văn học. Sau đó, Andrei đi dạy học ở Novosakhtinsk, nhưng liên tục bị kỷ luật phải thuyên chuyển hết trường này qua trường khác vì các hành vi bạo lực, nhất là sau giai đoạn bà mẹ qua đời vào cuối năm 1973.
Năm 1978, Chikatilo chuyển đến thành phố Sakhi thuộc tỉnh Rostov và thực hiện tội ác đầu tiên. Ngày 22/12/1978, hắn cưỡng hiếp rồi thủ tiêu bé gái 9 tuổi Elena Zakotnova. Tuy có bằng chứng thể hiện mối liên quan giữa Chikatilo với vụ án mạng, nhưng người ta đã bắt nhầm "hung thủ" Aleksander Kravchenko. Chikatilo bị sa thải khỏi ngành sư phạm vào đầu năm 1981. Năm 1982, hắn ra tay thực hiện tới 7 vụ án mạng liên tiếp. Thủ đoạn của tên giết người hàng loạt này là lân la làm quen các nạn nhân tại nhà ga hay bến tàu, rồi rủ rê vào một cánh rừng gần đó "dạo chơi" để dễ bề trừ khử họ.
Nửa năm sau đó, hắn sử dụng chiêu bài "án binh bất động". Nhưng đột nhiên chỉ trong vòng ba tháng từ tháng 6 đến tháng 9/1983 có thêm 4 nạn nhân nữa bị giết chết. Sự việc đã đến hồi nghiêm trọng khiến Bộ Nội vụ Liên Xô quyết định thành lập chuyên án điều tra. Một toán công tác đặc biệt do Thiếu tá Mikhail Fetisov lãnh đạo được tức tốc phái tới Rostov. Công tác tập trung rà soát các khu vực quanh Sakhi do M.Fetisov dày dạn kinh nghiệm trực tiếp chỉ đạo; còn việc thẩm vấn các nghi can và gặp gỡ nhân chứng do Chánh thanh tra pháp y Victor Burakov tiến hành. Cả thảy 6 cái xác trong số nạn nhân mất tích đã được tìm ra. Đồng thời hơn 150 nghìn người đã được phỏng vấn nhằm thanh lọc đối tượng, cuối cùng thì chân tướng thủ phạm đã được xác định.
Năm 1984, lại có thêm 1 nạn nhân nữa, nâng tổng số nạn nhân lên 15 người. Các đội tuần tra được ráo riết tăng cường tại các trạm giao thông công cộng. Cuối cùng, Andrei Chikatilo đã bị các điều tra viên bắt giữ khi có biểu hiện đáng ngờ tại một nhà chờ xe khách trong thành phố Rostov.
Thì ra, theo hồ sơ lưu trữ thì nghi phạm này còn có nhiều tiền sự khác, cũng như cơ quan điều tra đã đặt dấu hỏi về quá khứ đáng ngờ của Chikatilo, nhưng vẫn chưa đủ chứng cứ buộc hắn tội giết người theo luật định. Về phần mình, Chikatilo nhanh chóng thừa nhận các tội trước kia hòng lấp liếm tội ác chính. Rốt cục hắn bị kết án 1 năm tù, tới cuối năm 1984 được ân giảm sau khi mới ngồi tù 3 tháng.
Nằm im vài tháng, tháng 8/1985 Chikatilo lại ra tay sát hại hai phụ nữ nhưng bất thành. Đến tháng 5/1987, một chàng trai đã trở thành nạn nhân của hắn. Rút kinh nghiệm để tránh bị các lực lượng tuần tra phát hiện, Chikatilo chỉ gây án tại những nơi xa chỗ cư ngụ. Cụ thể là ở Zaporozie (tháng 7/1987), Leningrad (9/1987), Krasni-Sulin (4/1988)... Năm 1988, có 8 nạn nhân bị hắn giết hại, năm 1990 là 9 nạn nhân (7 nam và 2 nữ). Việc khám phá ra một thi thể gần nhà ga Leskoz khiến mọi người càng nâng cao cảnh giác. Ngày 6/11/1990, Chikatilo vừa gây tội ác với một nữ nạn nhân tên là Sveta Korostik và chạm trán với cảnh sát tuần tra. Hết đường chối cãi, hắn buộc phải cúi đầu nhận tội đã sát hại 52 người từ năm 1978 đến 1990; hắn còn khai đã từng “uống máu và ăn thịt nạn nhân sau khi họ tắt thở" (!).
Phiên tòa xét xử vụ giết người hàng loạt được mở vào ngày 14/4/1992. Hung thủ Andrei Chikatilo bị đề nghị tới 52 án tử hình - tương ứng với tổng số nạn nhân thiệt mạng. Án tử hình Chikatilo đã được thực thi ngay sau đó tại nhà tù trung tâm ở Moskva.
Qua vụ này, giới điều tra hình sự Nga nêu ra hai điểm yếu của cơ quan chức năng khiến hung thủ mặc sức lộng hành suốt một thời gian dài. Đó là, sự chủ quan lơ là của các ngành chức năng; kế đến là sự phối hợp thiếu đồng bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều đặc biệt đáng nói thêm nữa về mặt "lỗ hổng nghiệp vụ", rằng cá nhân Andrei Chikatilo có thành phần sinh học cơ thể hết sức hy hữu. Cấu trúc ADN trong máu hắn lại không trùng lặp với cấu trúc ở tinh trùng, do vậy tuy đã tóm được nghi phạm nhưng rồi buộc phải thả ra vì thiếu bằng chứng thuyết phục nhất.
Hiện khoa học vẫn còn trong vòng tranh cãi không ngớt, rằng tỉ lệ số người có cấu trúc ADN tương tự như trường hợp của A.Chikatilo là bao nhiêu - một phần chục triệu hay một phần trăm triệu? Vụ án đã khép lại, nhưng câu hỏi về mặt kỹ thuật nghiệp vụ vẫn còn đó...
Huyền Thoại John Wayne Glover (hay The Granny Killer, hay Kẻ Sát Nhân Người Già)
-Phoenix-
Năm 1965, Glover bị kết án ba tháng tù vì tội nhìn trộm (Peeping Tom) nhưng chỉ bị giam sáu tuần lễ. Sau khi được thả, dường như hắn đã thay đổi các cách thức gây án và trừ một lần bị kết tội ăn trộm vào năm 1978, nhiều năm sau đó, hắn không hề gặp rắc rối nào với cảnh sát.
Glover đã đến đó buổi trưa và buộc phải về tay không vì không thể lấy đơn đặt bánh meat-pie từ giám đốc Rob Murrell. Trên đường đi bộ qua khu vườn của viện dưỡng lão này, hắn đã gặp và bắt chuyện với bà Cleveland đang ngồi đọc sách trên băng ghế.
Khi bà cụ đứng dậy và đi bộ tới dẫy nhà chính, Glover liền chộp lấy vai và đẩy bà ta vào một chỗ khuất. Hắn đã đập đầu bà Cleveland nhiều lần xuống nền xi-măng trước khi tụt chiếc quần lót và quấn quanh cổ nạn nhân. Sau đó, tên sát nhân máu lạnh này lấy 60USD trong chiếc túi xách tay và bỏ đi.
Thật không thể nào hiểu nổi, cảnh sát vẫn không thể tìm ra được bằng chứng để liên kết vụ giết người này với vụ tấn công bà cụ Moseley tại viện dưỡng lão Wesley Home cách đó 6 tháng. Nhóm đặc nhiệm cũng không hề biết về hành động tội ác này. Nếu biết, có thể họ đã phát hiện ra được một người đàn ông trung niên có vóc dáng bệ vệ và tóc muối tiêu đã xuất hiện cách hiện trường cả hai vụ án không lâu.
Chẳng có manh mối nào và kẻ giết người thì biến mất như một bóng ma. Một lần nữa, nhóm đặc nhiệm thấy bối rối và bất lực. Chắc chắn phải có một người nhìn thấy một điều gì đó? Họ kiểm tra rất kỹ lưỡng lời khai của các nhân chứng và phỏng vấn những người đang sống tại viện dưỡng lão này, những cư dân ở gần đó thường chạy bộ vào buổi sáng, tài xế xe buýt và taxi và những người đi tiếp thị. Thậm chí, họ đã gửi hồ sơ của vụ án này tới FBI với hy vọng giúp tìm ra một manh mối. Cả khu vực bờ biển phía bắc của Sydney giờ đây ở trong tình trạng bị vây hãm. Phố xá vắng tanh và những ai có người thân lớn tuổi đều phải liên lạc thường xuyên.
Một tuần sau cái chết của cụ bà Cleveland, cuối cùng cảnh sát đã có được manh mối đầu tiên, một kết quả từ công việc điều tra đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong một số vụ tấn công, các nạn nhân nhớ đã nhìn thấy một người đàn ông trung niên, tóc bạc và ăn mặc rất chỉnh tề. Nạn nhân thứ nhất, bà Margaret Todhunter, nhớ lại một người đàn ông “đúng như mô tả trên” đã đi ngang qua trước khi bà bị tấn công từ phía sau lưng và bị cướp mất chiếc túi xách.
Bà Effie Carnie, người bị đánh và bị cướp mất những túi thực phẩm hồi tháng 8 cũng miêu tả kẻ tấn công bà là một người đàn ông trưởng thành, vóc dáng bệ vệ và có mái tóc bạc. Cả hai nạn nhân đều miêu tả kẻ tấn công họ là người có ngoại hình trung bình. Cuối cùng cảnh sát nhận ra rằng họ có thể đang tìm kiếm sai đối tượng và kẻ sát nhân có thể ra vào mọi nơi chốn dễ dàng bởi vì hắn không thuộc loại người được mọi người để ý.
Đến ngày 23/11, thêm một xác chết khác nữa được tìm thấy. Đây là nạn nhân thứ ba trong tháng. Khi đi mua rượu whisky ở Mosman, Glover nhìn thấy bà cụ Muriel Falconer, 92 tuổi xác một vài túi thực phẩm, đi có vẻ rất nặng nhọc trên đường. Hắn liền quay trở lại xe, lấy cây búa và đôi găng ta và rồi đi theo bà lão tới cửa nhà. Vì bà Falconer bị điếc mà mắt lại rất yếu nên đã không nhìn thấy Glover lẻn vào cánh cửa trước, tiến đến phía sau và giơ cây búa lên. Hắn đã bịt miệng bà cụ và đánh nhiều nhát búa vào đầu và cổ bà. Khi nạn nhân ngã xuống đất, hắn bắt đầu tụt chiếc quần lót của bà Falconer nhưng bà cụ đã tỉnh lại và hét lớn. Càng điên cuồng hơn, Glover đã đánh nhiều nhát búa vào đầu nạn nhân cho tới khi biết chắc bà cụ đã bất tỉnh, ròi tụt chiếc quần lót và dùng nó để xiết cổ nạn nhân.
Sau đó, hắn đóng cánh cửa trước, rồi lục lọi chiếc túi của bà lão và toàn bộ căn nhà trước khi lặng lẽ rời khỏi đó với chiếc túi xách có 100USD, cây búa và đôi găng tay. Cho mãi tới buổi chiều hôm sau, khi một người hàng xóm sang chơi, xác chết của bà cụ mới được phát hiện. Mặc dù hiện trường vụ giết người ở trong tình trạng hỗn độn nhưng với cảnh sát, đây là cơ hội đầu tiên mà họ hy vọng tìm được các chứng cứ. Vụ án mạng xảy ra trong nhà nạn nhân và vì thế, hiện trường không bị làm xáo trộn. Họ tìm thấy một dấu chân có dính máu trên tấm thảm - đây là chứng cứ quan trọng đầu tiên kể từ khi cuộc điều tra bắt đầu. Tuy nhiên thám tử Hagan vẫn cần đến sự may mắn để có thể bắt được người đàn ông bệnh hoạn này bởi vì hắn xuất hiện như một bóng ma và có thể ra tay giết người bất cứ lúc nào hắn muốn.
Và cuối cùng dịp may đã đến vào ngày 11/1/1990, khi Glover phạm một sai lầm nghiêm trọng. Tuy nhiên, phải mất ba tuần lễ trước khi vụ này đến tai nhóm cảnh sát đặc nhiệm. Ngày 11/1, Glover đã đến Bệnh viện Greenwich với một giấy hẹn gặp riêng giám đốc bệnh viên, ông Reg Cadman. Sau đó, Glover với bộ đồng phục của người đại diện hãng bánh meat-pie và một cuốn sổ đã đi vào một phòng bệnh viện, nơi có 4 phụ nữ lớn tuổi rất ốm yếu đang nằm trên giường. Hắn bước đến giường bà cụ Daisy Roberts, một bệnh nhân ung thư thời kỳ cuối, hỏi có bị sốt không và rồi hắn thọc tay vào quần áo lót của cụ, sờ soạng một cách rất tục tĩu.
Bà Robert hốt hoảng và bấm nút chuông báo động ở đầu giường. Một y tá tên là Pauline Davis đã chạy đến và nhìn thấy Glover đang đứng trong phòng. Khi bị hỏi, Glover vụt chạy ra khỏi phòng. Cô y tá chạy theo và kịp ghi số xe trong khi hắn vội vã nổ máy và chạy mất. Cô Davis đã gọi cho cảnh sát và một lúc sau, hai nữ nhân viên cảnh sát từ trạm Chastwood có mặt để điều tra. Nhân viên bệnh viện đã có thể nhận diện và biết tên người này là Glover, bởi vì hắn đã từng đến đây nhiều lần để quảng cáo bánh meat-pie. Một tuần sau, khi cảnh sát trở lại với một tấm ảnh của John Glover, y tá Davis và bà Roberts đã nhận ngay ra hắn. Thế nhưng vì một lý do nào đó không thể giải thích nổi mà tới tận 3 tuần sau, vụ này mới được thông báo cho nhóm đặc nhiệm Granny Killer.
Theo lời khai sau này của Glover, mọi chuyện bắt đầu vào ngày 11/1/1989, khi hắn nhìn thấy bà cụ 84 tuổi Margaret Todhunter đi bộ một mình trên con đường yên tĩnh Hale Road, Mosman. Glover đậu xe lại và khi chắc chắn không có ai quanh đó, hắn đã đấm thật mạnh vào mặt nạn nhân bằng tay phải và giật chiếc túi xách đựng 209 USD của bà. Khi hắn chạy trốn cùng với chiếc túi xách, bà Todhunter đã la lớn: “Thằng ăn cướp hèn hạ”.
Sau đó Glover đi thẳng tới Câu lạc bộ Mosman RSL. Ở đó, hắn uống rượu và đánh bạc bằng số tiền vừa cướp được. Cuộc điều tra của cảnh sát kết luận đây là vụ trấn lột và nghi ngờ rằng một kẻ nào đó nhìn thấy bà lão có số tiền mặt này và chờ thời gian thuận lợi để ra tay hành động. Ở một số khu vực của Sydney mà tệ nạn ma túy hoành hành, các vụ trấn lột xảy ra như cơm bữa và dù vụ án này đã được điều tra rất cẩn thận, người ta vẫn không thể lấy lại số tiền đã bị cướp hoặc tìm ra kẻ phạm tội hèn hạ này. Thật may mắn bà cụ Todhunter còn sống sót nhưng bị xây xát khắp cơ thể và rất sợ hãi.
Những vụ giết người bắt đầu
Nạn nhân tiếp theo của Glover không có được may mắn như bà Todhunter. Ngày 1/3/1989, sau khi uống một vài ly rượu tại Mosman RSL, Glover đi tới chiếc xe của mình đỗ ở con đường đông đúc Military Road và nhìn thấy bà cụ Gwendoline Mitchelhill (ảnh bên) đang chống gậy đi bộ về nhà sau khi mua đồ từ cửa hàng ở cuối đường. Glover bước vội tới chiếc xe để lấy chiếc búa nhét vào lưng quần và từ từ bước theo bà lão này tới khu nhà vắng vẻ của những người về hưu. Trong khi bà cụ loay hoay mở khóa cửa, hắn rút cây búa ra và đập một phát thật mạnh vào sau đầu của bà lão. Sau đó, hắn đã đánh liên tục vào đầu và người nạn nhân khiến một vài chiếc xương sườn của bà cụ bị gãy. Tên cướp hèn hạ này đã tẩu thoát, sau khi giật chiếc ví đầm có 100 USD của nạn nhân.
Thật khó mà tin được, bà Michelhill vẫn còn sống nhờ có hai cậu học sinh nhìn thấy và đưa bà đi cấp cứu. Trong khi xe cứu thương và xe cảnh sát đến hiện trường thì Glover ngồi trong phòng khách ở nhà thắc mắc với vợ rằng, không biết có việc gì mà xe cảnh sát hú còi ầm ĩ thế.
Một lần nữa cảnh sát lại tỏ ra rất bối rối. Mặc dù chẳng tìm thấy sự liên kết rõ ràng nào giữa hai vụ tấn công trên nhưng nhiều người vẫn tin rằng thủ phạm chỉ là một. Tuy nhiên giả thuyết này đã bị bác bỏ, sau đó, cảnh sát cho rằng đây chỉ là một vụ trấn lột mà nạn nhân không may đã chết.
10 tuần sau, vào chiều 9/5, Glover đang chạy xe trên đường Military Road để tới Mosman RSL thì nhìn thấy bà cụ Winifred Ashton mặc áo mưa màu đỏ đang chống gậy chậm chạp đi về phía hắn. Bà Ashton vừa đi chơi bingo tại câu lạc bộ RSL này và đang đi bộ trở về nhà nằm ở con đường gần đó, Raglan Street. Glover mở cốp xe lấy đôi găng tay và đi theo bà cụ vào dãy chung cư. Hắn tấn công bà Ashton bằng chiếc búa và quẳng xác nạn nhân vào thùng rác.
Mặc dù đang bị bệnh máu trắng, bà cụ ốm yếu 84 tuổi này vẫn chống cự rất quyết liệ và Glover sau này đã tự thú rằng: “Có lúc bà ấy đã làm tôi chới với và tôi đã phải dốc đầu bà ta xuống nền xi-măng nhiều lần”. Trong khi bà Ashton nằm bất tỉnh thì Glover đã lột chiếc quần của nạn nhân và dùng nó để siết cổ bà. Và như để bày tỏ lòng kính trọng đối với người phụ nữ lớn tuổi đã chết, Glover đặt cây gậy và đôi giầy bên cạnh chân nạn nhân trước rồi tẩu thoát với chiếc ví đầm trong đó có 100 USD.
Sau này, Glover đã nói với một nhân viên của quán rượu tại Mosman RSL rằng, hắn hy vọng tiếng còi xe cứu thương và xe cảnh sát mà họ có thể nghe thấy ở góc đường không phải là do một vụ trấn lột. Glover vừa nói vừa thản nhiên đút hết số tiền trong ví của bà cụ Ashton vào các chiếc máy đánh bạc. Chỉ đến lúc này, cảnh sát mới tin rằng, có một tên sát nhân điên loạn đang hoành hành. Các vụ giết người có nhiều điểm tương tự, cả ba nạn nhân đều là những phụ nữ lớn tuổi giàu có, đều sống trong khu vực Mosman, đều bị hành hung hoặc giết chết với cùng một cách thức và đều bị cướp đi những chiếc chiếc ví. Như vậy hung thủ không phải là một tên cướp bình thường.
Và Glover đã có một vài thay đổi đáng ngạc nhiên. Hắn bắt đầu sờ soạng những phụ nữ lớn tuổi nằm liệt giường trong các viện dưỡng lão, những nơi mà hắn đến thăm với tư cách là nhân viên tiếp thị các sản phẩm bánh nhân thịt. Đây là một chi tiết của vụ án đã làm các thám tử và chuyên gia tâm lý cảm thấy rất bối rối. Glover khẳng định hắn không hề có ham muốn tình dục đối với bất cứ ai. Hắn chẳng bao giờ tấn công bất cứ nạn nhân nào bị hắn cướp và giết chết vì lý do tình dục cả. Tuy nhiên, hắn có lảng vảng đến các viện dưỡng lão và tấn công những phụ nữ lớn tuổi nằm liệt giường.
Cảnh sát địa phương đã tích cực điều tra nhưng đã chẳng có tiến triển gì. Đến lúc này, hành động khác thường này của Glover vẫn không được liên kết với các vụ giết người (mặc dù sau này, chúng được xác định là một phần rất quan trọng trong việc nhận diện tên giết người nguy hiểm “Granny Killer”). Lần đầu tiên Glover thực hiện hành vi này là với bà cụ 77 tuổi, Marjorie Moseley vào ngày 6/6/1989 tại Wesley Gardens Nursing Home, một nơi khá xa Mosman. Bà Moseley khai với cảnh sát rằng bà đã bị một người đàn ông thọc tay vào quần lót nhưng bà không thể nhớ được mặt hắn.
Đến ngày 24/6, Glover đến viện dưỡng lão Caroline Chisholm Nursing Home ở Lane Cove. Hắn đi qua khắp các dãy phòng và thọc tay vào quần áo của một phụ nữ lớn tuổi để. Đi sang phòng bên cạnh, hắn luồn tay vào ngực áo của một phụ nữ khác. Bà này đã hốt hoảng, la lớn và Glover đã bị các nhân viên ở đây chất vấn nhưng không bị bắt giữ và đã nhanh chóng chuồn mất.
Các vụ lạm dụng tình dục này đã được cảnh sát địa phương điều tra nhưng họ không đưa ra được một bằng chứng nào cho thấy chúng có liên hệ với những vụ giết người ở Mosman. Đến khi người ta xác định được có sự liên quan giữa chúng thì đã có thêm nhiều vụ hành hung, trấn lột và giết người nữa. Ngày 8/8/1989, Glover đã hành hung bà cụ Effie Carnie trên một con đường vắng ở Lindfield, không cách xa Mosman nhiều lắm và cướp những túi thực phẩm của nạn nhân.
Ngày 6/10, hắn đóng giả thành một bác sĩ và luồn tay vào quần lót của bà Phylis McNeil, một bệnh nhân tại Wybenia Nursing Home ở Neutral Bay. Lần này, hắn lại thoát được khi người phụ nữ lớn tuổi bị mù này kêu cứu. Dường như Glover có thể vào ra các bệnh viện bất cứ lúc nào hắn muốn. Không ai nghi ngờ thủ phạm lại là người đại diện cho công ty sản xuất bánh nhân thịt.
Buổi trưa ngày 18/10, Glover bắt chuyện với bà Doris Cox khi bà cụ 86 tuổi này chậm chạp trở về nhà trên con đường Spit Road, Mosman. Hắn đi theo người phụ nữ này vào cầu thang rất khuất của khu nhà dành cho người về hưu và bất ngờ tấn công từ phía sau lưng bằng cách sử dụng toàn bộ sức nặng thân thể của hắn để xô bà cụ đập mặt vào bức tường gạch. Sau khi chẳng tìm thấy thứ gì mà hắn muốn lấy trong chiếc ví đầm, Glover bỏ mặc nạn nhân nằm thoi thóp và trở về nhà.
Thật may mắn là bà Cox, một bệnh nhân của chứng bệnh Alzheimer vẫn còn sống. Tuy nhiên, bà cụ không thể miêu tả rõ ràng hung thủ dù đã nói chuyện và cùng đi bộ với hắn. Bà Cox nghĩ kẻ tấn công mình là một người đàn ông trẻ tuổi và đã cố gắng hết sức để giúp cảnh sát thực hiện được bức phác thảo chân dung kẻ thủ ác. Cảnh sát tin rằng họ đã có một được manh mối trong tay.
Đối với người chỉ huy nhóm đặc nhiệm, thám tử Mike Hagan, tin tức mới này rất có ý nghĩa. Ông cho rằng kẻ giết người là người sinh sống ở địa phương vì các vụ giết người và các vụ trấn lột này đều xảy ra ở những khu vực gần nhau. Hơn nữa, phân tích tâm lý tội phạm phán đoán rằng kẻ giết người có thể là một thiếu niên có sự ám ảnh nào đó đối với bà nội hoặc bà ngoại của hắn. Và bà Cox tin rằng bà đã bị một người đàn ông trẻ tuổi tấn công.
Nhưng dường như có một thế lực nào đó đã bảo vệ Glover không rơi vào tay cảnh sát vì vụ tấn công tiếp theo của hắn đã khiến cảnh sát cho rằng người đàn ông mà họ đang tìm kiếm không phải là một người sống ở địa phương.
Vụ giết chết bà lão 85 tuổi, bà Margaret Pahud vào ngày 2/11 rõ ràng là hành động dã man của tên giết người Granny Killer. Trên đường đi bộ trở về ngôi nhà nằm trong một con hẻm (song song với con đường đông đúc Longueville Roadở Lane Cove), bà cụ bị đánh vào gáy bằng một vật cùn. Kết quả khám nghiệm pháp y đưa ra tại tòa cho thấy: vụ tấn công này xảy ra chỉ trong vài giây và từ các vết nứt ở sọ do các cú đánh rất mạnh, nhân viên điều tra kết luận rằng người phụ nữ lớn tuổi tội nghiệp này đã chết mà không kịp nhận ra điều gì đã xảy ra với mình. Glover đã lấy đi chiếc ví của nạn nhân, nhét nó vào trong áo cùng với cây búa và thản nhiên rời khỏi hiện trường.
Xác chết của bà cụ Pahud được một học sinh nữ phát hiện vài phút sau đó. Lúc đầu, cô gái này cứ tưởng xác chết là một đống quần áo bị vứt ở lề đường. Trong khi xe cảnh sát và xe cứu thương tới hiện trường, Glover đã đi tới một câu lạc bộ chơi gôn ở gần đó, mở chiếc ví lấy 300USD và sau đó vứt chiếc ví xuống cống. Sau đó hắn đi đến Câu lạc bộ Mosman RSL, uống rượu và đánh bạc bằng tiền cướp được của bà cụ Pahud.
Cảnh sát đã thực sự cảm thấy nản lòng. Vụ giết người này xảy ra cách Mosman khoảng 5km và giả thuyết thủ phạm trong các vụ giết người trước đó là người địa phương của họ không còn chắc chắn nữa. Và họ quyết định tìm kiếm một thiếu niên không phải là người địa phương và có thể đến từ bất cứ nơi nào.
Một nhóm đặc nhiệm lớn nhất nước Úc đã được lập ra và được tăng cường thêm nhiều nhân viên điều tra dày dạn kinh nghiệm. 35 thám tử có kinh nghiệm nhất của tiểu bang đã tập hợp tại Bộ chỉ huy cảnh sát và Chánh thám tử Hagan yêu cầu họ phải làm việc ngày đêm, điều tra mọi manh mối cho đến khi bắt được tên sát nhân cực kỳ nguy hiểm này. Cảnh sát đã công bố món tiền thưởng 20.000 cho ai bắt được kẻ sát nhân. Hình ảnh của kẻ tình nghi được dán khắp các siêu thị, trạm xăng và sạp báo.
Còn ông Hagan thì bắt đầu thấy nản lòng. Sau này, ông tâm sự rằng: “Tôi đã phục vụ trong ngành điều tra của cảnh sát gần 30 năm và tôi nghĩ tháng 11/1989 là tháng tệ hại nhất trong cuộc đời thám tử của tôi. Tôi đã mất ăn, mất ngủ còn tên giết người vẫn tiếp tục sát hại những phụ nữ lớn tuổi”. Ông Hagan đã có mặt suốt ngày tại hiện trường phạm tội, nơi xảy ra vụ giết chết bà Pahud. Đến cuối ngày, quá mệt mỏi vì thiếu ngủ, ông Hagan đã ghé vào trạm cảnh sát Pennant Hills trên đường về nhà để trả lời một tin nhắn khẩn cấp mà ông vừa nhận được. Ông gọi điện thoại cho Bộ chỉ huy cảnh sát, và suýt quỵ xuống khi được biết lại có thêm một vụ án mạng nữa, nạn nhân cũng bị xiết cổ bằng chiếc quần lót. Sau này ông Hagan kể rằng: “Tôi không thể diễn tả được cảm xúc của tôi trong buổi tối hôm đó. Vừa trở về từ một vụ giết người thì lại được cho biết thêm một vụ khác nữa. Thật hết sức khủng khiếp. Hai vụ giết người trong vòng 24 tiếng đồng hồ, chúng tôi chưa bao giờ gặp một trường hợp nào như thế cả”.
Glover đã đến đó buổi trưa và buộc phải về tay không vì không thể lấy đơn đặt bánh meat-pie từ giám đốc Rob Murrell. Trên đường đi bộ qua khu vườn của viện dưỡng lão này, hắn đã gặp và bắt chuyện với bà Cleveland đang ngồi đọc sách trên băng ghế.
Khi bà cụ đứng dậy và đi bộ tới dẫy nhà chính, Glover liền chộp lấy vai và đẩy bà ta vào một chỗ khuất. Hắn đã đập đầu bà Cleveland nhiều lần xuống nền xi-măng trước khi tụt chiếc quần lót và quấn quanh cổ nạn nhân. Sau đó, tên sát nhân máu lạnh này lấy 60USD trong chiếc túi xách tay và bỏ đi.
Thật không thể nào hiểu nổi, cảnh sát vẫn không thể tìm ra được bằng chứng để liên kết vụ giết người này với vụ tấn công bà cụ Moseley tại viện dưỡng lão Wesley Home cách đó 6 tháng. Nhóm đặc nhiệm cũng không hề biết về hành động tội ác này. Nếu biết, có thể họ đã phát hiện ra được một người đàn ông trung niên có vóc dáng bệ vệ và tóc muối tiêu đã xuất hiện cách hiện trường cả hai vụ án không lâu.
Chẳng có manh mối nào và kẻ giết người thì biến mất như một bóng ma. Một lần nữa, nhóm đặc nhiệm thấy bối rối và bất lực. Chắc chắn phải có một người nhìn thấy một điều gì đó? Họ kiểm tra rất kỹ lưỡng lời khai của các nhân chứng và phỏng vấn những người đang sống tại viện dưỡng lão này, những cư dân ở gần đó thường chạy bộ vào buổi sáng, tài xế xe buýt và taxi và những người đi tiếp thị. Thậm chí, họ đã gửi hồ sơ của vụ án này tới FBI với hy vọng giúp tìm ra một manh mối. Cả khu vực bờ biển phía bắc của Sydney giờ đây ở trong tình trạng bị vây hãm. Phố xá vắng tanh và những ai có người thân lớn tuổi đều phải liên lạc thường xuyên.
Một tuần sau cái chết của cụ bà Cleveland, cuối cùng cảnh sát đã có được manh mối đầu tiên, một kết quả từ công việc điều tra đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong một số vụ tấn công, các nạn nhân nhớ đã nhìn thấy một người đàn ông trung niên, tóc bạc và ăn mặc rất chỉnh tề. Nạn nhân thứ nhất, bà Margaret Todhunter, nhớ lại một người đàn ông “đúng như mô tả trên” đã đi ngang qua trước khi bà bị tấn công từ phía sau lưng và bị cướp mất chiếc túi xách.
Bà Effie Carnie, người bị đánh và bị cướp mất những túi thực phẩm hồi tháng 8 cũng miêu tả kẻ tấn công bà là một người đàn ông trưởng thành, vóc dáng bệ vệ và có mái tóc bạc. Cả hai nạn nhân đều miêu tả kẻ tấn công họ là người có ngoại hình trung bình. Cuối cùng cảnh sát nhận ra rằng họ có thể đang tìm kiếm sai đối tượng và kẻ sát nhân có thể ra vào mọi nơi chốn dễ dàng bởi vì hắn không thuộc loại người được mọi người để ý.
Đến ngày 23/11, thêm một xác chết khác nữa được tìm thấy. Đây là nạn nhân thứ ba trong tháng. Khi đi mua rượu whisky ở Mosman, Glover nhìn thấy bà cụ Muriel Falconer, 92 tuổi xác một vài túi thực phẩm, đi có vẻ rất nặng nhọc trên đường. Hắn liền quay trở lại xe, lấy cây búa và đôi găng ta và rồi đi theo bà lão tới cửa nhà. Vì bà Falconer bị điếc mà mắt lại rất yếu nên đã không nhìn thấy Glover lẻn vào cánh cửa trước, tiến đến phía sau và giơ cây búa lên. Hắn đã bịt miệng bà cụ và đánh nhiều nhát búa vào đầu và cổ bà. Khi nạn nhân ngã xuống đất, hắn bắt đầu tụt chiếc quần lót của bà Falconer nhưng bà cụ đã tỉnh lại và hét lớn. Càng điên cuồng hơn, Glover đã đánh nhiều nhát búa vào đầu nạn nhân cho tới khi biết chắc bà cụ đã bất tỉnh, ròi tụt chiếc quần lót và dùng nó để xiết cổ nạn nhân.
Sau đó, hắn đóng cánh cửa trước, rồi lục lọi chiếc túi của bà lão và toàn bộ căn nhà trước khi lặng lẽ rời khỏi đó với chiếc túi xách có 100USD, cây búa và đôi găng tay. Cho mãi tới buổi chiều hôm sau, khi một người hàng xóm sang chơi, xác chết của bà cụ mới được phát hiện. Mặc dù hiện trường vụ giết người ở trong tình trạng hỗn độn nhưng với cảnh sát, đây là cơ hội đầu tiên mà họ hy vọng tìm được các chứng cứ. Vụ án mạng xảy ra trong nhà nạn nhân và vì thế, hiện trường không bị làm xáo trộn. Họ tìm thấy một dấu chân có dính máu trên tấm thảm - đây là chứng cứ quan trọng đầu tiên kể từ khi cuộc điều tra bắt đầu. Tuy nhiên thám tử Hagan vẫn cần đến sự may mắn để có thể bắt được người đàn ông bệnh hoạn này bởi vì hắn xuất hiện như một bóng ma và có thể ra tay giết người bất cứ lúc nào hắn muốn.
Và cuối cùng dịp may đã đến vào ngày 11/1/1990, khi Glover phạm một sai lầm nghiêm trọng. Tuy nhiên, phải mất ba tuần lễ trước khi vụ này đến tai nhóm cảnh sát đặc nhiệm. Ngày 11/1, Glover đã đến Bệnh viện Greenwich với một giấy hẹn gặp riêng giám đốc bệnh viên, ông Reg Cadman. Sau đó, Glover với bộ đồng phục của người đại diện hãng bánh meat-pie và một cuốn sổ đã đi vào một phòng bệnh viện, nơi có 4 phụ nữ lớn tuổi rất ốm yếu đang nằm trên giường. Hắn bước đến giường bà cụ Daisy Roberts, một bệnh nhân ung thư thời kỳ cuối, hỏi có bị sốt không và rồi hắn thọc tay vào quần áo lót của cụ, sờ soạng một cách rất tục tĩu.
Bà Robert hốt hoảng và bấm nút chuông báo động ở đầu giường. Một y tá tên là Pauline Davis đã chạy đến và nhìn thấy Glover đang đứng trong phòng. Khi bị hỏi, Glover vụt chạy ra khỏi phòng. Cô y tá chạy theo và kịp ghi số xe trong khi hắn vội vã nổ máy và chạy mất. Cô Davis đã gọi cho cảnh sát và một lúc sau, hai nữ nhân viên cảnh sát từ trạm Chastwood có mặt để điều tra. Nhân viên bệnh viện đã có thể nhận diện và biết tên người này là Glover, bởi vì hắn đã từng đến đây nhiều lần để quảng cáo bánh meat-pie. Một tuần sau, khi cảnh sát trở lại với một tấm ảnh của John Glover, y tá Davis và bà Roberts đã nhận ngay ra hắn. Thế nhưng vì một lý do nào đó không thể giải thích nổi mà tới tận 3 tuần sau, vụ này mới được thông báo cho nhóm đặc nhiệm Granny Killer.
Cảnh sát đến bệnh viện nhưng các bác sĩ cho biết Glover quá yếu, không thể trả lời thẩm vấn được. Nhân viên bệnh viện trao cho cảnh sát một bức thư tuyệt mệnh của Glover có hàng chữ “No more grannies, no more grannies”.
Nhưng lá thư này vẫn không làm cảnh sát nhớ đến người đàn ông trung niên bệ vệ với mái tóc bạc (kẻ đang dân hồi phục trong bệnh viện sau ý định tự sát) có thể giúp họ sáng tỏ hàng loạt các vụ tấn công trước đó. Đến ngày 18/1, cảnh sát trở lại bệnh viện để thẩm vấn Glover và hắn đã miễn cưỡng đồng ý cho chụp tấm ảnh để cảnh sát đưa cho cô y tá Davis và bà Roberts nhận diện. Sau khi xác định nhân thân của hắn, một trong các thám tử đã nói với y tá Davis và bà Robert rằng: “Chúng tôi biết người này là ai. Chúng tôi đã biết tất cả những gì về ông ta.”
Nhưng thật đáng ngạc nhiên, phải mất thêm hai tuần nữa, lá thư tuyệt mệnh và tấm hình của Glover mới xuất hiện trên bàn làm việc của Chánh thám tử Mike Hagan. Ngay khi xem chúng, ông Hagan biết ngay đã có được kẻ tình nghi trong tay. Tấm hình này phù hợp với miêu tả về người đàn ông trung niên, tóc bạc và có vóc dáng bệ vệ và làm công việc tiếp thị cho công ty sản xuất bánh meat-pie.
Các thám tử đã tiến hành thẩm vấn Glover. Hắn phủ nhận không dính dáng gì đến vụ hành hung một phụ nữ lớn tuổi tại một viện dưỡng lão. Cảnh sát giả vờ hài lòng với lời khai của hắn và để hắn tưởng vận may của mình vẫn còn. Thực chất, John Wayne Glover đã bị 6 thám tử theo dõi 24/24. Những người này được giao trách nhiệm phát hiện mọi điều đáng ngờ về người đàn ông này. Trong lúc này, cảnh sát vẫn không hề tìm thấy một bằng chứng nào để kết tội Glover.
Ông Hagan đang đứng trước một sự lựa chọn rất khó khăn. Hoặc nói thẳng cho tên sát nhân Granny Killer biết hắn đang bị cảnh sát tình nghi và chấp nhận khả năng không tìm thấy bất cứ chứng cớ nào có thể đứng vững trong tòa án, hoặc chờ cho đến khi hắn tấn công thêm một phụ nữ khác rồi bắt hắn ngay tại trận. Và ông đã quyết định chọn phương án hai. Thật đáng buồn, quyết định này đã làm mất thêm một mạng người nữa.
Cảnh sát đã bám rất sát Glover, thỉnh thoảng hắn dừng lại để nói chuyện với những phụ nữ lớn tuổi nhưng với một thái độ rất tử tế và thân thiện. Đến ngày 19/3, Glover đến nhà một người bạn là bà Joan Sinclair vào lúc 10h sáng. Hắn đã nhìn vào gương chiếu hậu để chải lại mái tóc trước khi đến gõ cửa nhà bà Joan. Nhóm thám tử theo dõi chẳng có lý do nào để nghĩ đây không phải là một cuộc viếng thăm bình thường. Họ tiếp tục quan sát mọi góc cạnh của căn nhà này. Đến 13 giờ, họ chẳng thấy bóng dáng Glover đâu và cũng không nhận thấy bất cứ sự sống nào trong căn nhà này. Nhóm cảnh sát theo dõi bắt đầu lo lắng. 17 giờ, vẫn chẳng có gì xảy ra và đến 18 giờ, thấy có điều gì đó không ổn, ông Hagan hạ lệnh cho cấp dưới xông vào nhà.
Trực diện tên sát nhân "Granny Killer"
Ngay khi bò vào cửa, ba thám tử là Miles O’Toole, Paul Mayger và Paul Jacob đã nhìn thấy một vũng máu dưới sàn nhà. Với những khẩu súng trong tay, họ thận trọng quan sát từng phòng và nhìn thấy một chiếc búa nằm giữa vũng máu khô trên tấm thảm. Khi bò ra phía sau nhà, họ nhìn thấy xác chết của một người phụ nữ. Đó chính là bà Joan Sinclair. Đầu nạn nhân (bị đánh bằng búa) bê bết máu được bọc lại bằng những tấm khăn bông. Bà ta bị lột trần từ lưng trở xuống và chiếc quần lót quấn quanh cổ. Bộ phận sinh dục của nạn nhân bị làm tổn hại nhưng sau này, Glover một mực phủ nhận không hãm hiếp bà Joan.
Rõ ràng đây là hành động giết người của Granny Killer. Nhưng hắn đang ở đâu? Phải chăng hắn đang ẩn nấp ở đâu đó? Thám tử Mayger thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy hai bàn chân thò ra từ cuối bồn tắm. Một người đàn ông mập mạp với mái tóc bạc, trần truồng nằm bất tỉnh trong bồn tắm. Một cổ tay bị rạch và không khí sặc mùi rượu và nôn mửa. Các viên thám tử cầu nguyện cho hắn vẫn còn sống. Và lời cầu nguyện của họ đã thành hiện thực. Người đàn ông nằm trong bồn tắm chính là John Wayne Glover.
Sau khi tỉnh lại trong bệnh viện, Glover đã khai với cảnh sát về đoạn cuối của “trường thiên thảm kịch Granny Killer”. Glover quen biết bà Joan Sinclair một thời gian khá lâu và hai người rất quý mến nhau với một mối quan hệ thuần khiết, tuyệt đối không có yếu tố tình dục. Tuy nhiên, ngày 19/3, sau khi bước vào nhà của bà Sinclair, Glover đã lấy chiếc búa từ trong chiếc vali và đánh vào đầu người bạn thân. Sau đó hắn tụt chiếc quần lót của nạn nhân và dùng nó để xiết cổ bà. Glover đã để xác chết của bà Sinclair trên thảm, quấn bốn chiếc khăn tắm quanh những vết thương trên đầu bà ta để ngăn không cho máu chảy. Sau đó, hắn kéo xác chết ngang qua các phòng, để lại những vệt máu dài. Khi làm xong việc này hắn nhảy vào bồn tắm, uống một nắm thuốc ngủ Valium, rạch cổ tay và nằm chờ chết.
Nhưng hắn đã không chết và cảnh sát rất vui mừng, bởi vì họ nghĩ rằng nếu hành động tự sát này thành công rồi thì câu hỏi: “Không biết Glover có phải là thủ phạm đích thực không” của họ sẽ không bao giờ có câu trả lời. Và Glover đã làm tan biến sự lo ngại của họ với những lời tự thú về những việc hắn đã làm. Tuy nhiên, hắn lại làm cảnh sát và các chuyên gia tâm lý rất nản lòng bởi hắn không thể đưa ra lý do cho hành động cuồng sát của mình.
Câu hỏi “Tại sao?” luôn luôn được đáp lại bằng cùng một câu trả lời: “Tôi không biết. Tôi chỉ nhìn thấy các phụ nữ này và dường như nó đã làm bùng lên trong tôi một điều gì đó. Lúc đó tôi chỉ còn biết phải đối xử thô bạo với họ”. Khi Glover bị buộc tội giết chết 6 phụ nữ lớn tuổi, người vợ và hai cô con gái của hắn đã tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Họ chẳng bao giờ mảy may nghĩ rằng người đàn ông mà họ yêu thương, là chồng, là cha lại có thể là Granny Killer.
Tại phiên xử được tổ chức vào tháng 11/1991, John Wayne Glover không nhận 6 tội giết người với lý do rằng hắn bị mất trí khi thực hiện các vụ giết người này. Bồi thẩm đoàn đã không chấp nhận lý lẽ này và họ chỉ cần hai tiếng rưỡi để tuyên bố Glover phạm tội và không hề bị mất trí. Chánh án Wood đã tuyên phạt 6 bản án chung thân cho tên sát nhân đê tiện này.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)